... (1) Vì sao vào lúc này Bộ Chính trị lại phải bàn và ra Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045? (2) Những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết lần này là gì?; và (3) Chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để tổ chức thực hiện có kết quả những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết lần này của Bộ Chính trị đã đề ra, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động…?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại hội nghị. |
2. Về câu hỏi thứ hai: Những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết Bộ Chính trị lần này là gì?
Theo tôi, có 3 điểm đáng chú ý như sau:
Một là, về quan điểm, nhận thức và tư tưởng chỉ đạo: Nếu như Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX chỉ nêu 3 quan điểm chỉ đạo, rất ngắn gọn (18 dòng) thì Nghị quyết lần này đã kế thừa, bổ sung, phát triển thành 5 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ, sát hợp với tình hình mới. Để tạo được chuyển biến có tính đột phá trong việc phát huy tốt hơn nữa tiềm năng, lợi thế của Vùng và khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong thời gian qua, Nghị quyết lần này của Bộ Chính trị tiếp tục xác định: Vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng là trách nhiệm của các địa phương trong Vùng và toàn hệ thống chính trị. Cần phải bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội của Vùng; phát huy thật tốt vai trò là vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các đại biểu tham dự Hội nghị (Ảnh: Nhật Bắc). |
Phát triển Vùng phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với Quy hoạch tổng thể quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược biển, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và thể chế điều phối phát triển Vùng đủ mạnh, thiết thực, hiệu quả; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng; thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới, tạo đột phá để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội của Vùng. Phát huy vai trò và khai thác có hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, các trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị.
Vùng đồng bằng sông Hồng cần phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng suất lao động, tăng nhanh tỉ trọng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng. Tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn. Phát triển nhanh mạng lưới đô thị với hạ tầng đồng bộ, kết nối. Huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao. Khai thác tốt nhất các thế mạnh về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, địa kinh tế, giá trị bản sắc văn hoá, truyền thống lịch sử. Cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thu hút nguồn lực đầu tư từ mọi thành phần kinh tế cho phát triển Vùng nhanh và bền vững hơn.
“Cả nước vì đồng bằng sông Hồng; đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước; phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và tiềm năng, lợi thế vượt trội để luôn luôn xứng đáng là trung tâm chính trị đầu não quốc gia; là một trong hai động lực phát triển mạnh mẽ hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có nhiều đóng góp to lớn hơn nữa cho việc hiện thực hoá khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta. Kiên quyết khắc phục tình trạng “Nghị quyết thì thật là hay, xem ra thực hiện còn gay trăm bề”, hoặc “Ðánh trống bỏ dùi”, “Ðầu voi, đuôi chuột””.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Phát huy mạnh hơn nữa truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng rất vẻ vang của cha ông để phát triển hài hoà giữa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm công bằng xã hội. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại. Coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm nêu gương, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Hai là, về mục tiêu: Có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nghị quyết lần này đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phấn đấu đến năm 2030: “Vùng đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hiện đại, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế- xã hội đồng bộ, hiện đại và hệ thống đô thị thông minh, kết nối. Hệ thống chính trị vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại mở rộng, hội nhập quốc tế hiệu quả. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, dẫn đầu cả nước. Thủ đô Hà Nội là Thành phố “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”; là trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực”. Đến năm 2045: “Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm hàng đầu của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, thông minh và một số trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh, xanh, bền vững. Người dân có thu nhập cao, đời sống hạnh phúc và thịnh vượng. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc. Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu, phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển ở khu vực và thế giới”.
Ba là, về nhiệm vụ và giải pháp: Nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững vùng, các tiểu vùng và các địa phương trong Vùng; phát triển khoa học - công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh...
(*)Tiêu đề do báo Tiền Phong đặt.