Chiến dịch tiêm vắc xin sởi –rubella diễn ra từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015 này là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành y tế thời gian qua. Bộ y tế và Chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc duyệt kế hoạch chương trình tiêm vắc xin sởi –rubella miễn phí này đặc biệt coi trọng yêu cầu về an toàn.
Bộ Y tế yêu cầu đánh giá lại mức độ an toàn vắc xin, khả năng, phương án chống sốc sau tiêm, sau đó mới cho triển khai. 20 triệu trẻ được tiêm chủng, nhưng chỉ có tỷ lệ khiêm tốn có phản ứng sau tiêm là một thành công của chương trình tiêm vắc xin này, có thể nói mức độ an toàn cao hơn hẳn so với các chiến dịch tiêm năm 2005 và 2008. Cũng TS Hồng cho biết, tỷ lệ trẻ tiêm vắc xin sởi –rubella lần này có phản ứng sau tiêm thấp hơn nhiều so với tiêu chí mà WHO và nhà sản xuất vắc xin này và Bộ Y tế đưa ra.
Theo Lãnh đạo Viện Vệ sinh Dịch tễ, tháng 7/2015, đoàn chuyên gia quốc tế (không có chuyên gia Việt Nam) về tiêm chủng đã điều tra độc lập tại Việt Nam và đưa ra đánh giá 98% trẻ em được tiêm vắc xin, trong đó có lấy số liệu từ đợt tiêm vắc xin sởi, rubella. Thực tế, tỷ lệ trẻ được tiêm vắc xin sởi-rubella từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015 đạt 98,2%. Hà Nội và TPHCM là hai địa phương lúc đầu gặp khó khăn trong vận động trẻ đi tiêm, nhưng sau đó tỷ lệ trẻ được tiêm chủng đạt rất cao, mức độ lan tỏa về tính an toàn nhanh.
TS Dương Thị Hồng cho hay, hiện cả nước chỉ còn 5 xã có tỷ lệ trẻ được tiêm đạt từ 85 đến 90%. Nhờ tiêm vắc xin sởi –rubella, năm 2015, cả nước không xảy ra ổ dịch nào, số ca nhiễm rất ít. Trong khi đó, năm 2014, cả nước có 15.000 ca măc sởi-rubella xảy ra tại 63 tỉnh, thành phố.
Chiến dịch tiêm vắc xin sởi –rubella ưu tiên cho trẻ từ 1 đến 5 tuổi có nguy cơ mắc cao, đáp ứng phòng dịch dịp đông-xuân, sau đó sẽ triển khai cho trẻ có độ tuổi cao hơn. Trẻ tiêm vắc xin sởi – rubella phòng được bệnh đa dị tật, bệnh tim bẩm sinh…
Để phòng xa cho những trẻ em ra đời trong tương lai không mắc đa dị tật và đặc biệt là tim bẩm sinh, TS Dương Thị Hồng cho biết, đang lập kế hoạch để tiêm vắc xin sởi-rubella cho 2000 nữ giới ở độ tuổi chuẩn bị kết hôn tại các xã vùng sâu, xa, công nhân khu công nghiệp.