Những điều ít được biết về hai bờ Hiền Lương

Những điều ít được biết về hai bờ Hiền Lương
TP -  Từ ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

Tuy vẫn giữ vững không khí hoà dịu ở Hiền Lương, nhưng từ năm 1960, quân và dân Vĩnh Linh đã bí mật tiếp tế cho lực lượng cách mạng Quảng Trị  bằng con đường vận chuyển qua sông ngay tại đồn Liên hợp Cửa Tùng, gọi là bến đò Tùng Luật, mang mật danh “Bến đò A”.

Suốt 8 năm ròng từ 1965 đến 1972, bến đò A đã hứng chịu 11.500 quả bom, 36.000 quả đạn pháo, 9 lần máy bay B52 rải thảm và hơn 1.100 lần máy bay địch thả bom. 

Những con đò của người dân Vĩnh Quang, từ bến đò A đã đưa qua về Bắc Nam 1,5 triệu lượt bộ đội, 400.000 dân công, 30.000 lượt đồng bào K10, K15 (đồng bào đi sơ tán ra miền Bắc).

Ban ngày thì tất cả đò đều nhận chìm xuống sông, ban bên lại vớt lên, nối bến. Hơn một vạn chuyến đò đi về an toàn dưới làn bom đạn giặc! Những chiến sĩ giao liên sông nước nổi tiếng, chèo đò ở bến đò A ngày ấy bây giờ bà con vẫn nhắc tên: Nguyễn Kháng, Nguyễn Con, Nguyễn Ngô, Nguyễn Hưởng, Võ Dẫn ...

Bến đò A đã trở thành nơi xuất kích của bộ đội, dân quân đi đánh giặc ở Do Linh, Cửa Việt. Giữa năm 1967, phát hiện bộ đội ta thường qua lại bến đò A, máy bay, pháo hạm Mỹ tăng cường đánh phá rất dữ dội. May nhờ quân dân Vĩnh Quang đào địa đạo dài 2.500 mét, sâu 15- 20 mét ở ngay bến đò nên có chỗ để bộ đội trú ẩn.

Suốt 5 ngày từ tối 19/6 đến 24/6 năm 1967, máy bay Mỹ liên tục đã trút xuống bến đò A và xã Vĩnh Quang 3.700 quả bom, hàng ngàn quả đạn đại bác, làm sập hai cửa hầm địa đạo “Đồi 61” ở xóm Cửa, làm cho 61 đồng bào chiến sĩ ta chết ngạt trong hầm! 

Bom B52, bom từ trường, đạn 105 ly từ Cồn Tiên -Dốc Miếu, từ pháo hạm ngoài khơi liên tục trút xuống, nhưng những con đò từ bến đò A vẫn đêm đêm xuất kích. 

Năm 1972, bến đò A đã làm một việc chưa từng có: Tổ chức đưa 50 chiếc xe tăng, xe lội nước của bộ đội sang sông vào chiến trường Quảng Trị. Các chiến sĩ dân quân Vĩnh Quang đã ngâm mình trong nước làm cọc tiêu dẫn đường. Cũng tại bến đò A, năm 1967 và 1972, các con đò đã đưa hàng ngàn đồng bào các huyện phía Nam sang Vĩnh Linh an toàn. 

Bến đò A cũng là nơi xuất kích của những con thuyền tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Bến đò cách đảo 15 hải lý. Những năm 1965 - 1972, đường ra đảo thực sự là con đường máu.

10 người “ra đảo” thì  6 người hy sinh. 7 năm ra đảo có 21 thuyền bị địch phá hủy ngay tại bến đò, 9 thuyền bị tàu chiến địch bắt và đánh chìm, 24 đồng chí đồng bào hy sinh, 11 người bị địch bắt... nhưng đảo Cồn Cỏ vẫn được tiếp sức hàng ngày. Bến đò A đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử chiến tranh cách mạng…

Chỉ vùng sông nhỏ xung quanh bến đò A ấy mà nhà văn Xuân Đức đã viết đến hai cuốn tiểu thuyết dày cộp  “Cửa gió” và “Bến đò xưa lặng lẽ”. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, chứng tỏ đây là mảnh đất trầm tích lịch sử và tình người…

Những điều ít được biết về hai bờ Hiền Lương ảnh 1
Chiếc loa công suất lớn bên bờ Bắc

“Cuộc chiến âm thanh”

Sau Hiệp định Geneve, nhằm giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước, ta đã cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh, phân bố thành 5 cụm suốt chiều dài 1.500 mét ở bờ bắc.

Mỗi cụm 24 loa loại 25 W chĩa về bờ nam. Mỗi ngày 24/24 giờ, hệ thống loa này phát đi chương trình của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền thanh Vĩnh Linh, chương trình ca nhạc, ngâm thơ, nói vè, kịch, dân ca, chương trình của Đội truyền thanh lưu động.... rất hấp dẫn.

Tức tối, mấy tuần sau, Mỹ - Diệm liền gắn ở bờ nam những cụm loa do Tây Đức, Úc sản xuất có công suất lớn, phát inh ỏi, lấn át cả loa phát của ta.

Hơn nữa hệ loa phóng thanh của ta công suất nhỏ, không phát đến được  Cửa Việt, Chợ Cầu... Thế là Trung ương cấp thêm 8 loa công suất gấp đôi (50W) và một loa công suất 250W để tăng giọng phát âm.

Đầu năm 1960, một giàn loa Mỹ với công suất lớn được đưa đến bờ nam.  Bọn chúng huyênh hoang: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang xa tận Quảng Bình, dân bờ bắc được nghe rõ tiếng nói của chính nghĩa quốc gia...”.

Ta không chịu thua. Năm ấy, một chiếc loa có đường kính vành loa 1,7 mét, công suất 500W xuất hiện. Bổ sung thêm còn có 20 loa loại 50 W, 4 loa loại 250 W.

Ta đã dựng một đường dây cao thế 6 KVA dài 4 km kéo từ Vĩnh Sơn về đến Tùng Luật và một trạm cao tần đặt cách cầu Hiền Lương 2,5 km về phía bắc để tăng âm cho hệ thống loa.

Các cụm loa được đặt trên trụ bê tông cốt thép kiên cố. Riêng chiếc “loa đại” 500 W đặt trên xe lưu động. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa 10 km, đến tận Chợ Cầu, Cửa Việt, Gio An.

Đến năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, hệ thống loa phóng thanh của cả hai bờ hoàn toàn ngưng hoạt động...

Cuộc “chọi cờ” bên sông Bến Hải

“Chọi cờ” là cuộc chiến một mất một còn diễn ra trong suốt 14 năm ròng.

Ngày 10/8/1954, Đồn Hiền Lương dựng cột cờ bằng cây phi lao cao 12 mét, với khổ cờ 3,2 m x 4,8 m ( 15,36 m2). Bọn Pháp liền cắm cờ tam tài của chúng lên nóc lô cốt Xuân Hòa phía Nam cầu, cao 15 mét.

Bà con hai bờ yêu cầu: Cờ ta nhất định phải cao hơn cờ địch! Thế là các chiến sĩ lại lặn lội lên rừng tìm được cây gỗ cao 18 mét về làm cột cờ. Trên đỉnh cột treo lá cờ 24 m2.

Chỉ mấy tháng sau, Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30 mét với lá cờ 3 sọc lớn, có đèn nê ông nhấp nháy đủ màu như thách đố.

Sau khi dựng cờ, loa phóng thanh địch rêu rao : “Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cho dựng cột cờ cao 30 mét  ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng Bắc Việt thấy rõ chánh nghĩa quốc gia”.

Tháng 7/1957, các chiến sĩ công an Hiền Lương đã dựng một cột cờ bằng thép ống cao 34,5 mét với lá cờ rộng 108 m2. Trên đỉnh cột cờ có gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2 mét. 5 đỉnh ngôi sao gắn một chùm 15 bóng điện loại 500 W.

Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao vút, đồng bào hai bờ bắc, nam ôm nhau reo mừng. Ngắm lá cờ Tổ quốc bay cao lồng lộng, ai cũng chảy nước mắt ! Mỹ - Ngụy hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện này. Chúng vội vàng tôn cột cờ của chúng lên 35 mét, và lên giọng mỉa mai: “Bắc Việt muốn chọi cờ, nhưng chọi sao nổi quốc gia!”.

Đáp lại lòng mong mỏi của đồng bào, năm 1962, Chính phủ đã điều một đơn vị xây dựng chở vật liệu từ Hà Nội vào xây cột cờ cao 38,6 mét, kéo lên lá cờ 134 m2, nặng 15 kg.

Cách đỉnh cột cờ 10 mét có một ca-bin để chiến sĩ ta đứng thu và treo cờ. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến! Nhân dân tận vùng Cửa Việt, Chợ Cầu, Gio An... ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ quốc đang vẫy gọi.

Hiểu tấm lòng bà con hai bờ, các chiến sĩ công an đồn Hiền Lương hàng ngày kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ muộn hơn (6h30 đến 18h30) để bà con thêm thời gian ngắm cờ ! Ngày lễ, Tết, cờ ta bay trên đỉnh cột suốt ngày đêm !

Từ năm 1954 đến 10/1967, công an Hiền Lương đã dùng hết 267 lá cờ các cỡ. Năm 1967, cột cờ 38,6 mét bị bom Mỹ đánh gãy, các chiến sĩ công an đã thêm 11 lần dựng lại cột cờ bằng gỗ cao từ 12 đến 18 mét, 42 lần thay lá cờ. Cuộc chiến “chọi cờ” đến hồi đẫm máu.

Ngày 17/8/1965, một tốp “thần sấm” Mỹ lao xuống ném bom cột cờ. Mảnh bom bắn vào cột cờ chan chát, khói bụi mù mịt. Nhưng cột cờ vẫn đứng vững.

Tức tối, máy bay Mỹ lại nhào xuống thấp hơn, nhưng bị các chiến sĩ bảo vệ cờ bắn trả quyết liệt. Bọn giặc lái hốt hoảng vãi bom trúng đồn cảnh sát ngụy bờ Nam làm 87 người chết và bị thương!

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ quốc ở đầu cầu giới tuyến, 13 đồng chí công an và dân quân đã hy sinh, 8 đồng chí bị thương. Người dân Vĩnh Linh còn nhắc mãi tấm gương mẹ Nguyễn Thị Diệm, anh Nguyễn Đức Lãng... những người may cờ, vá cờ trong bom đạm.

Anh Nguyễn Đức Lãng, chiến sĩ quân đội trong nhiều năm liên tục đã ra Hà Nội nhận cờ. Từ khi Mỹ ném bom miền Bắc, đi lại khó khăn, Bộ tư lệnh cấp cho Vĩnh Linh tiền tự mua vải may cờ.

Thế là anh Lãng thành thợ may cờ. Mỗi tháng bình quân anh may một lá. Mỗi năm anh may từ 14- 16 lá cờ, rộng hàng trăm mét vuông, nặng 15 ký. Mỗi lá cờ may hết 122 mét vải đỏ, 12 mét vải vàng. Mỗi đường may phải may ba bốn đường chỉ cờ mới chịu được sức gió.

Khi máy bay địch đánh rát quá, cờ bị rách, mẹ Nguyễn Thị Diệm trong mấy năm trời, với cây kim, sợi chỉ đã bao lần giữa mưa bom bão đạn, sau mỗi trận đánh, mẹ đến ngay chân cột cờ để vá lành lá cờ Tổ Quốc.

Nhiều lúc bom đánh dữ quá, vá không kịp, mẹ lại chong đèn thức thâu đêm trong hầm để vá. Không đủ vải vá cờ, mẹ  động viên các em học sinh quyên góp khăn quàng đỏ để làm vải vá cờ...

Ôi, những chiến sĩ và những người dân đã sống chết vì lá cờ Tổ quốc nơi đầu cầu giới tuyến. Họ đã thể hiện bản lĩnh văn hóa cao cường và đức hy sinh lẫm liệt...

MỚI - NÓNG