Ký giả Cao Đài & 'phiên bản' Em bé đuốc sống

0:00 / 0:00
0:00
TP - Đọc hồi ký “Hơn nửa đời hư” của học giả - nhà cổ ngoạn Vương Hồng Sển đến nhàu mà vẫn phân vân lắm về cái ông ký giả Nguyễn Kỳ Nam cụ Vương từng tấm tắc nể trọng (người được cụ Sển trọng nể hơi bị hiếm?).
Ký giả Cao Đài & 'phiên bản' Em bé đuốc sống ảnh 1

Ký giả Nam Đình Nguyễn Kỳ Nam.

“Tôi khuyên độc giả nên tìm đọc quyển “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945- 1954” của ký giả lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam), không bán, và dành riêng, do nhựt báo “Dân Chủ Mới” xuất bản năm Giáp Thìn (1964). Tôi nhìn nhận quyển “Hồi ký” ông Nguyễn Kỳ Nam này mới thật là tập sử liệu quí giá viết đúng phương pháp hồi ký vô tư và khách quan.”

(“Hơn nửa đời hư”, Trang 340 NXB Tổng hợp TPHCM năm 1992.

Cụ Vương chỉ vỏn vẹn có mấy dòng vậy thôi chứ soát, xét suốt 800 trang của cuốn hồi ký của cụ không có thêm dòng nào về ký giả Nguyễn Kỳ Nam ấy!

Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam là ai?

Ký giả Cao Đài & 'phiên bản' Em bé đuốc sống ảnh 2

Cuốn “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 – 1954” của Kỳ Nam

May mắn trong chuyến Nam du mới đây, bất ngờ và tình cờ, tôi được một manh mối dẫn đến vị ký giả có tên là Nguyễn Kỳ Nam nọ.

Một vị ký giả đạo Cao Đài!

Đầu thế kỷ 20, với mục đích truyền bá giáo lý Cao Đài, năm 1928 - khi đạo Cao Đài vừa ra đời hai năm - các tiền bối Cao Đài đã sớm quan tâm xuất bản báo chí tiếng Pháp và chữ quốc ngữ để có diễn đàn hiệu quả cho tổ chức tôn giáo của mình. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, chắc chắn không thể thiếu báo chí Cao Đài, một mảng của báo chí tôn giáo nước nhà.

Chưa khi nào cái cái câu “báo Nam văn Bắc” lại sinh sắc đến thế khi tiếp cận với sự nghiệp của nhà báo tài danh năng động này. Ký giả Nguyễn Kỳ Nam còn có bút hiệu là Nam Đình Nguyễn Thế Phương. Một chàng trai sáng láng thông minh, năm 20 tuổi đã nhập tịch làng báo. Mà viết bài rặt tiếng Pháp cho tờ L’Opinion (Công Luận). 1928 Nguyễn Kỳ Nam là giám đốc tuần san L’Action indochinoise (Hành động Đông Dương). L’Action indochinoise chính là tờ báo đầu tiên của đạo Cao Đài. 1932, ông làm chủ nhiệm tuần san Bảo An (Conservation de la Paix) ủng hộ đạo Cao Đài. 1935: Quản lý tờ Sài Gòn Ngọ Báo, Rồi lần lượt làm biên tập tờ Tin Điển, Tin Mới của Anna Lê Trung Cang; Dư Luận, Việt Thanh. 1948 đến 1954, Kỳ Nam làm chủ nhiệm nhật báo Thần Chung.

1968-1972: Cùng Trần Tấn Quốc làm báo Đuốc Nhà Nam.

Năm 1977, được hai con gái đón sang Pháp trị bệnh. Mất tại Pháp cuối năm 1978.

Là tín đồ Cao Đài thứ thiệt là người viết về tôn giáo mình. Nhưng Nam Đình Nguyễn Kỳ Nam là nhà báo tài năng năng động xông xáo luôn bám riết thời sự với chức phận ký giả theo đúng nghĩa của từ này.

“Dưới chế độ Nam Kỳ tự trị chúng tôi làm báo như bắt cóc bỏ đĩa. Hễ bị đóng cửa tờ này chúng tôi nhảy qua tờ khác. Khi tờ khác bị thâu hồi giấy phép chúng tôi chạy mướn măng séc của tờ kia.

Chỉ trong 18 tháng mà tôi làm chủ bút hơn 10 tờ báo. Những Tiên Điện, Tin mới, Dư luận, Việt Thanh Sài thành, Công chúng…

Báo chết như rạ mà việc xin phép ra báo cũng không khó báo mọc ra như nấm.

(Trích hồi ký trang 332).

Tôi gặp hên khi được bạn viết phương Nam tặng cho bản photo cuốn Hồi ký của Nam Đình Nguyễn Kỳ Nam mà cụ Vương Hồng Sển từng tấm tắc.

Vừa may khi trở ra Bắc tôi cũng được tiếp cận với ấn phẩm của NXB Văn học “Nam Đình – Nhà văn, nhà báo kì đặc” (kỳ đặc = đặc kiệt, kỳ lạ?) với phần chính (437/786 trang) là trích hầu hết cuốn “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Nguyễn Kỳ Nam (tức Nam Đình).

Cuốn “Hồi ký” chứa nhiều tư liệu quí giá về Cách mạng Tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp tại Nam bộ nhưng có vẻ ít được trích dẫn trong các công trình lịch sử đương đại.

Nhiều ấn tượng ngạc nhiên bất ngờ khi tiếp cận với hồi ký. Như sự kiện mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc tới trong cuốn “Những năm tháng không thể nào quên” việc quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8/4/1946. Đại tướng chỉ nhắc chỉ điểm đầu việc (như hầu hết báo chí tư liệu hồi ấy và sau này). Nhưng may mắn ký giả Nam Đình đã miêu tả rất chi tiết.

Duyên do dẫn đến vụ nổ - chiến công ấy được Nam Đình đề cập.

Đúng ngày kỳ hẹn - 20 tháng 3 năm 1946 - tại miếu Bà Cố, cách Biên-hòa mười cây số, hai bên hẹn gặp nhau.

Nguyễn-Bình [Khu trưởng Khu 7, chỉ huy quân sự cao nhất của chính phủ Việt Nam DCCH tại Nam bộ] cử Phạm-ngọc-Thuần, Lê-đình-Chi và hai người nữa đến gặp phái-đoàn Pháp.

Đại-tá [Cédille, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Đông Dương] đưa điều-kiện: “Bên Việt-Nam phải giải-giới Dân-quân; nạp khí-giới cho Pháp. Pháp sẽ cho những người kháng-chiến về hợp-tác với Pháp”.

Điều-kiện hợp-tác như thế có nghĩa là đầu hàng không điều-kiện ! Hay là… bó tay nạp mình cho Pháp.

Phái-đoàn Phạm-ngọc-Thuần không cần thảo-luận gì nữa, liền trở về căn-cứ.

Pháp muốn biểu-dương lực-lượng hùng-hậu của mình, nên ngày sau, liền ra lịnh cho máy bay dội bom tan nát vùng Lạc-an [trung tâm Khu 7 Nam bộ và chiến khu Đ sau này].

Cố nhiên là nhà cửa, trâu bò, mùa-màng bị thiệt-hại nặng.

Dân chúng khóc trước cảnh điêu-tàn, người chết, nhà cửa bị thiêu hủy dưới trận mưa đạn.

Nguyễn-Bình thề trả thù bằng việc Tổ - chức đốt kho đạn Saigon.

Nếu thành-công vụ nầy, sẽ có 4 điều lợi:

- Một là, ủng-hộ Hội-nghị Đà-lạt Việt - Pháp sẽ mở vào ngày 14 tháng 4 năm 1946.

- Hai là, trả lời đề-nghị của Cédille.

- Ba là, trả lời cho tướng Leclerc [Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương] biết rằng: Nam-Bộ vẫn còn lực-lượng kháng-chiến, chớ không phải tan rã; như tướng Leclerc tuyên-bố đã bình-định xong.

- Bốn, để đồng-bào khắp nơi biết lực-lượng kháng-chiến vẫn còn mạnh mẽ, nhứt là đồng bào về thành, để mưu sinh-kế.

Nhưng làm sao đốt kho đạn ?

Nguyễn-Bình có họa-đồ kho đạn Saigon rồi, nhưng làm sao tấn-công?

Lúc đó dân-quân ở ngoại-ô Saigon tuyên-truyền rằng: có 2 cảm-tử-quân mình làm cây đuốc. Rồi tự đốt đuốc, chạy vào kho đạn…

Thật ra, việc phá-hủy kho đạn Saigon do một công-trình nghiên-cứu rất khoa-học của dân-quân tổ-chức lâu ngày. Hai cảm-tử-quân cùng với một sĩ-quan Nhựt đầu hàng dẫn đường.

Sĩ-quan Nhựt này trước kia có ở kho đạn, nên biết rõ địa-thế kho đạn.

Anh ta nói:

- Pháp không giữ phía sau kho đạn tức là phía sông Thị-Nghè, có nghĩa là, họ để trống cửa hậu cho mình vào kho đạn rất dễ dàng. Tại đây, có 1 đường cống lớn, chun vào tận kho đạn. Một kho nổ tung, tức nhiên, bao nhiêu kho khác, sẽ cháy hết.

Bộ tham-mưu kháng-chiến liền xúc-tiến công việc.

Tối 8 tháng 4, viên sĩ quan Nhựt dắt 2 cảm-tử-quân ta, bọc theo mình những đồ nhạy lửa dây tim có thuốc súng, đốt cháy… dẫn lửa vào hầm đạn.

Ba người lội sang sông Thị-Nghè; sĩ-quan Nhật chun vào lỗ cống, dẫn đường cho hai cảm-tử-quân ta.

Chất nhạy lửa đặt ngay hầm đạn, mối dây bắt lửa kéo trở ra miệng. Chừng lội trở ra, hai cảm-tử-quân cột một điếu thuốc ở đầu dây. Đốt điếu thuốc xong, cả ba lội qua sông Thị-Nghè, kiếm chỗ núp coi kết quả.

Điếu thuốc cháy tới dây dẫn lửa, tức thì dây dẫn lửa đem lửa vào tận hầm để đạn.

Tại đây, có sẵn chất nổ.

Một hầm đạn cháy, nhiều hầm khác nổ tung.

Sáng ngày 9 tháng 4, dân chúng Saigon nghe tiếng nổ liên tiếp, tưởng chừng kháng-chiến đã vào tận Saigon. Hai bên bắn nhau, nên mới gây tiếng súng long trời lở đất.

Cédille định giấu dân-chúng, nên đưa tin cho ký-giả ngoại-quốc và thông-tấn-xã A.F.P rằng: có một chiếc cam-nhông vào kho đạn, nhảy lên một cục gạch, đạn trên xe vùng nổ… Nên những kho đạn gần đó bị vạ lây.

Đạn nổ trọn ngày 9 tháng 4, rồi suốt cả đêm, suốt ngày 10, trọn đêm 10, suốt ngày 11 và trọn đêm 11; sáng 12, nổ lai-rai… đến tối lại mới dứt hẳn.

(hết trích)

“Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Kỳ Nam, tr. 305-307.

Có thể nói hồi ức của ký giả Nam Đình đã mô tả khá toàn diện một chiến công của quân dân Nam bộ: Lý do và thời điểm của trận đánh, những người thực hiện trận đánh, hậu quả của vụ nổ được thông báo bởi nhà binh Pháp cũng như thông tin trong dân chúng và thông tin của các hãng truyền thông nước ngoài.

Đọc đến đây, hẳn nhiều người nhớ đến sự kiện “em bé đuốc sống”.

Dưới đây là hồi ức của GS Phan Huy Lê:

“Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 – 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã “dựng” lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.

GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.

Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.

GS giải thích là thời Nam bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám.

Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.

(Dẫn theo GS Phan Huy Lê - Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám. Hồi ký)

Hồi ức của ký giả Nam Đình Nguyễn Kỳ Nam về sự kiện phá kho đạn ở Sài Gòn tháng 4/1946 như một nét vẽ sinh động cho bức tranh bi hùng của Nam bộ kháng chiến!

MỚI - NÓNG