Đào phai năm cũ

Đào phai năm cũ
TP - Nhà có ba chị em, dĩ nhiên mỗi người mỗi tính cách. An từ bé đã thích di chuyển, lớn lên chỉ thích ngồi sát cửa sổ ô tô để ngắm vạn vật vùn vụt trôi qua.
Đào phai năm cũ ảnh 1

An cũng thích máy móc, được tặng món đồ chơi gì, chẳng mấy chốc đã tháo ra xem chi tiết bên trong.

Chị Cả hùng hồn như đàn ông, chỉ thích học võ và xem phim võ hiệp. Ước mơ lớn nhất của chị là trở thành một người đàn bà quyền lực…

Chị Hai cũng không yếu đuối nhưng chỉ thích trồng hoa, vẽ, và  đọc những loại sách kiểu như Hồng Lâu Mộng.

Trong một lần cao hứng, cả ba chị em nguyện sẽ không ai lập gia đình, xây một ngôi nhà ba tầng. Chị Cả ở tầng thượng để luyện võ dưới ánh trăng. Chị Hai ở tầng trệt để trồng hoa. Còn An thì ở tầng nào cũng được.

Một năm nọ, có một thiếu niên lẻo khoẻo lèo khoèo đến bái chị Cả làm sư phụ. Khổ nỗi, chị Cả tuy có nổi đình nổi đám, nhưng nhận đệ tử thì có vẻ hơi quá sức. Thiếu niên ấy năn nỉ mãi. Nghĩ thế nào chị Cả lại bằng lòng. Song nhất quyết bắt chị Hai và An đã trở thành huynh đệ đồng môn với thiếu niên ấy.

Chị Hai chỉ ham trồng xuống nhổ lên mấy đám cúc và thược dược, đâu có quan tâm đến mấy món đấm đá thô thiển. Thế nhưng cả bọn bắt đầu nhập tâm được mấy cú đấm, vài cú đá thì võ đường giải tán vì sư phụ đột ngột đi lấy chồng. Thiếu niên ấy ngẩn ngơ mãi rồi cuối cùng bỏ đi, không thấy quay trở lại.

Mẹ An đau ốm quanh năm, đành phải xin nghỉ mất sức ở nhà máy. Sau đó vài năm ba An cũng xin nghỉ, rồi dắt cả nhà về quê nội xin thầu bãi bồi ven sông để trồng hoa. Bãi bồi rộng, miên miết cỏ xanh, lại là nơi hai dòng sông, một trong, một đục gặp nhau, hòa tan trong nhau rồi đổ về biển Đông. Chị Cả thắc mắc.

- Sao tự nhiên ba lại thích trồng hoa vậy?

Ba An cười hiền:

- Tại tao thấy con Bình ham trồng hoa nên chiều đó thôi.

Chị Cả cười híp mắt:

- Ba ơi! Nó trồng hoa là để chơi, còn ba trồng hoa là để… ăn. Hai chuyện đó khác nhau mà ba!

Ba An mắng yêu con gái:

- Tôi trồng gì mặc tôi, mắc mớ gì mà chị nhúng mũi vào?

An nhớ hồi bé xíu, thấy chị Hai trồng hoa đẹp, cũng rủ bé Yến nhà hàng xóm xin hoa cúc của chị về trồng ở mảnh vườn to như cái bàn uống nước.

Ước mơ sau này sẽ có một cánh đồng hoa thật lớn. Vậy mà lớn lên, mải đuổi theo những ước mơ mới, An đã không còn trồng hoa nữa. Bé Yến cũng theo bố mẹ chuyển đi xa lắm, biết có bao giờ gặp lại.

Nói là trồng hoa, nhưng dần dà lại hóa ra… trồng rau. Là vì kế hoạch trồng hoa của ba bị phá sản khi hai sào hoa hồng thí điểm được chăm chút đúng quy trình kỹ thuật do ông bạn của ba hướng dẫn, mà tịnh không cho chào đời một bông hồng ra hồn khiến người ta có thể mua để tặng nhau. Chị Cả lại được thể trêu ba:

- Ba ơi! Đất này tình yêu không thể đơm hoa được.

- Chị có biết vì sao không? - Chị Hai chêm vào. -Vì đây là ngã ba sông.

Tình yêu không chấp nhận sự dùng dằng, không dứt khoát.

Cả nhà cùng cười, nhưng trong mắt ai cũng lấp lánh cái gì đó ngậm ngùi.

…Lật hết các gốc hồng, ba gieo cải, đủ các loại cải và hoa cúc cho các dịp Tết. Thế là từ đó, mùa đông, bãi bồi rộn ràng hoa nở. Năm sau ba đem vài chục gốc đào về ươm. Bãi bồi trở thành vườn rau và hoa khoe sắc.

*  *  *

Thật chẳng có cách nào đoán được ý tứ của ông trời khi mà ông ta muốn sắp đặt mọi thứ theo ý mình mà chẳng cần phải hỏi ý kiến ai hết. Cả nhà chật vật lao động vẫn không đủ tiền chi tiêu vì mẹ An đau ốm quanh năm.

Chị Hai học cấp ba xong đành từ bỏ giấc mơ đại học, lên thành phố kiếm việc làm. Chị Hai lên phố có ngờ đâu lại gặp huynh đệ năm xưa. Chàng thư sinh áo vải ấy cũng đang làm thêm ở một hiệu sách cũ toàn Đông Chu, Tam Quốc, Kinh Dịch, Hồng Lâu Mộng.

Chị Hai kể: “Chàng rất ngạc nhiên vì ở hiệu sách toàn những cuốn kinh điển như thế, khách không là những ông già thì cũng là… những ông cụ non. Tự nhiên lại xuất hiện một người đẹp như Đại Ngọc. Chàng choáng liền, lân la tìm hiểu, mới ngớ ra là tiểu muội. Từ đó họ yêu nhau.

Khi còn làm ở nhà máy, ba giữ chức đội trưởng đội bảo vệ uy danh lẫy lừng. Hồi đó nhà lúc nào cũng có khách. Khách không là các chú lính ALiBôBô của ba thì cũng là những người lạ vừa lấm lét, vừa xun xoe hoặc ít nói.

Các chú ALiBôBô thì chỉ mang rượu đến uống và la hét. Còn những người lạ vừa lấm lét vừa xun xoe thì thường mang bánh kẹo cho chị em An. Nếu có ba ở nhà thế nào ba cũng đề nghị khách mang quà về. Hồi đó bánh kẹo đâu có thỏa sức ăn như bây giờ. Nhưng nếu ba mẹ đi vắng thì chị Cả ham ăn luôn giữ quà lại chia cho các em và trẻ con hàng xóm.

Ba biết chuyện, mắng chị nhưng mẹ lại bênh: “Chỉ là gói kẹo thôi mà. Chẳng lẽ người ta đến chơi lại đến tay không, mình còn không làm được cơ mà”.

Một lần chị Cả bóc một gói bánh thấy một cuộn tiền rất khéo giấu vào trong bánh. Không dám giấu, chị Cả thưa với ba, không ngờ ba giận quá, tát chị Cả một cái rồi đùng đùng gọi một chú ALiBôBô đến, bắt phải tìm trả lại cho người chủ gói bánh. Chị Cả cảm thấy bị oan ức, chạy ra ngõ ngồi khóc tu tu. Sau đó chị xin đi học võ.

- Con đi học võ để đánh đứa nào làm bậy cho ba hả giận.

Ba phì cười:

- Mày học võ để đánh nó hay đánh ba?

- Không. Con học võ cơ – Chị Cả làm nũng.

- Học võ cho khỏe người, nhưng đánh người là phạm pháp đấy.

Chị Cả đi học võ, trở thành nữ anh hùng trong đám trẻ con lớn bé ở khu tập thể. Tiếc rằng chị kết hôn quá sớm, khi ấy mới mười bảy tuổi đời. Chị dạy người ta đánh đấm, nhưng người ta chưa đánh chị đã gục rồi. Cú đấm tình yêu mà sư đệ của chị giáng cho quả là lợi hại.

Các chú ALiBôBô tự hào về ba, họ bàn tán rằng với danh tiếng của ba thì thế nào cũng thăng tiến. Nhưng rồi có một lần nghe đâu em trai chú giám đốc đắc tội gì đó, ba xử không nương tay. Thế nên lần lượt những người các chú ALi bảo: Chẳng có gì ghê gớm vẫn cứ qua mặt ba. Các chú ALiBôBô bất bình: “Người tốt thường không gặp may, người ngay hay gặp xui xẻo”. Có chú được rượu cổ vũ nói bô bô: “Sao lão lại trù anh nhỉ? Sao anh lại để lão trù nhỉ?”. 

Những chuyện ồn ào quanh nhà máy của ba cũng đã từ lâu trôi vào dĩ vãng. Nhà máy đã có giám đốc mới. Các chú ALiBôBô tức tối: “Thằng cha ấy chỉ là một gã lon ton phọt phẹt, thế mà cũng có ngày làm quan”.

Ba về vườn, trở thành ông lão trồng đào và rau cải. Ước mơ trở thành họa sĩ của chị Hai không trở thành hiện thực, và chị cũng không làm gì để biến nó thành hiện thực. Chỉ mỗi lần về thăm nhà, đi trong vườn cải xanh non và những cánh hoa rập rờn cánh vàng, cánh trắng, chị mới mong manh nhớ những ước mơ thơ bé. An cũng nhớ đến những ước mơ thời thơ bé của mình. Ước mơ có một cánh đồng hoa đã một phần trở thành hiện thực, chỉ thiếu có một người.

Tiểu Yến bặt vô âm tín mười năm bỗng nhiên xuất hiện trở lại. Tiểu Yến  năm xưa nay đã lớn thành… Đại Yến. Cô bé xinh như hoa. An nhận ra cô bé ngay từ lần gặp đầu tiên, nhưng cô bé không nhận ra An, hằng ngày hồn nhiên đùa vui cùng bạn bè, coi như không có An tồn tại.

“Chị ơi, sao thương một người lại không dễ dàng hả chị?”. Nghe An thủ thỉ, chị Hai nhìn chằm chằm vào đôi mắt đã biết ngác ngơ của An. ”Vì hạnh phúc là thứ duy nhất trên đời người ta không có được dễ dàng mà em. Này, cô bé đó là ai mà dám làm em đẹp trai của chị buồn?”.

An tủm tỉm cười: “Là hàng xóm cũ của chúng ta đấy. Em đã mấy lần gợi ý mà cô ấy vẫn cố tình không nhận ra em. Chị Hai cũng tủm tỉm cười : “Cô ta nghĩ em là một cây si non đấy. Phàm đã là cây thì trừ rau ra, bất cứ cây gì còn non cũng không có giá trị gì đáng kể. Si mà lại còn non thì liệu có ích gì”. “Nhưng cây cổ thụ nào mà chẳng bắt đầu từ một cây non?” “Vấn đề là làm sao cô ta đợi được đến khi cây si của em già. Nhưng thôi, đừng buồn chị sẽ viết thư làm quen giúp em”.

Chị Hai thức khuya lắc viết thư. Hôm sau chị Cả đến chơi, chộp được, cười ngất: “Tao mà là nó, chẳng bao giờ thèm để ý đến một bức thư ướt nhoét như thế này”.

Rồi chị Cả mơ màng với chiêm nghiệm của một người no đủ hạnh phúc: “Khi em ở bên ai đó mà cảm thấy thanh thản,thì đó sẽ là người mà em nhớ mãi”. Ánh mắt chị Cả lấp lánh đầy kỷ niệm: “Anh rể em là người đàn ông duy nhất chị yêu thương, nhưng chị cũng có một người mà mỗi khi nhớ đến chị luôn cảm thấy thanh thản”.

An nghi hoặc: “Mười bảy tuổi chị đã đi lấy chồng, làm gì có thời gian có người cũ mà thanh thản hả chị?”. Chị Cả cười khoái trá: “Em ơi, ở đời, ai chẳng có một người yêu cũ”.

Vườn đào của ba ngày càng khấm khá, diện tích cứ nới rộng dần. Chẳng bao lâu cả bãi bồi ngã ba sông đã xanh mướt lá đào tơ suốt hai mùa hạ, thu. Giáp Tết, ba bán hết đào cho thương lái, ba ra nghị quyết: “Đắt may, ế chịu. Đó là việc của họ, cha con ta chỉ lo trồng hoa thôi.

Cả năm có mấy ngày Tết, ba không muốn các con phải vất vả. Cả nhà tuân lệnh răm rắp. Thế nên, năm nào, chiều ba mươi, trừ chị Cả đã yên bề gia thất, An và chị Hai lại sánh vai nhau hòa vào dòng người đông đúc trong phiên chợ chiều ba mươi thanh thản.

Thường thì chẳng để mua sắm gì, bởi những thứ cần thiết đều đã sắm xong từ  lâu. Hai chị em tha thẩn khắp phiên chợ ồn ào nhìn người ta mua sắm và ngắm hoa đào, những cành đào phai vườn nhà đã trao tay thương lái đến với những bàn tay xa lạ khác.

Chị Hai bảo: Đào xứ ta nhiều loại, nhưng trong lòng chị chỉ có đào phai năm cánh cổ xưa là bất tử. Đã mấy năm chị Hai có thói quen đi chợ chiều ba mươi mà chẳng để mua gì. Cũng bởi chị tề gia nội trợ chẳng ra gì, mọi thứ giỏi giang đều dành hết về mẹ An.

Chiều ba mươi, mẹ An làm cơm tất niên. Nếu chị Hai và An vào bếp, thế nào cũng lóng nga lóng ngóng, thế nào cũng bị mẹ mắng. Một lần mẹ giao cho chị Hai món thịt nướng, chị say sưa nướng chúng cháy đen thui. Thế là để cho khuất mắt mẹ, chị kéo An ra chợ.

Giờ đây chị ra chợ cũng là để đón một người. An rất lấy làm lạ lùng, chị Hai và chàng thư sinh áo vải của chị yêu nhau đã nhiều năm, nhưng chưa một lần hai người dẫn nhau về ra mắt bố mẹ, xin đi lại đường hoàng. Thậm chí thời gian gặp nhau cũng rất ít ỏi.

Chiều ba mươi năm nào chàng cũng đáp chuyến xe cuối năm lên gặp chị, mua tặng chị một cành đào phai đón năm mới. Đào thì nhà cũng có, nhưng năm nào chàng cũng phải tặng chị một cành đào mới được. Họ đi bên nhau, mỉm cười với nhau rồi lại chia tay.

Năm nào chị Hai vác cành đào người yêu tặng từ chợ về là ba mẹ đều cười tủm tỉm, chẳng nói năng gì. Mẹ đã làm cơm tất niên, đã thắp hương khấn vái tổ tiên, ba đi đi lại lại trong vườn đào chỉ còn trơ gốc. Chị Hai cẩn thận cắm cành đào của người yêu vào chiếc bình sơn màu ngọc bích.

"Em chẳng thấy ai yêu nhau như anh chị bao giờ” – An thắc mắc, chị Hai cười: “Mỗi người yêu theo cách của riêng mình, cần gì cứ phải ồn ào mới gọi là yêu”.

Một năm, giáp Tết, chị Cả đùng đùng xách vali quần áo về ngôi nhà ven sông khiến cả nhà tròn mắt. Hồi xưa ba bảo sau này các chàng rể của ba nghèo túng không sao, chứ một là theo gái, hai là cờ bạc bất hảo là ba đòi con gái về, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo. Anh rể An đắc tội theo gái, ba chưa đòi con gái thì con gái đã về rồi. Nói thế chứ ba vẫn khuyên con gái nên khéo léo giữ chồng.

Chị Hai chun mũi trêu chị Cả: “Sao chị bảo học võ để đấm đứa nào láo xược cơ mà”. Chị Cả đang khóc sưng cả mắt cũng phì cười: “Chứ dì tưởng cứ giỏi hơn chồng thì dám đánh chồng sao?”.

Đêm cuối năm, gió lùa hun hút ngoài sông về cửa sổ, ba chị em trùm chăn tâm sự. An kể cho hai chị nghe về nụ hôn đầu đời. Một hôm An thật thà: Ngửi thấy hương hoa sữa cũng phải có duyên đấy. Bé Yến dẩu môi: “Bịa”. “Thật mà, Yến còn nhớ cây hoa sữa ở đầu khu tập thể nhà chúng mình xưa không? Mỗi mùa hoa nở, cả khu đều hãi hùng vì chúng quá thơm. Chỉ có An là không ngửi thấy gì hết, có gí cả một cành to xạc vào mũi cũng không ngửi thấy gì”.

Bé Yến hai mắt tròn vo. Cả hai cứ im lặng nhìn nhau. Bỗng An cảm thấy đôi môi nhỏ xinh của bé Yến lướt nhẹ trên môi mình, tiếng bé thì thào: “Nụ hôn này là để níu giữ An suốt đời”. Chị Cả nghe xong chuyện, cười rung cả giường: “Lạy thánh mớ bái. Thời buổi lòng chung thủy mong manh như tiết hạnh thiếu nữ, một nụ hôn đơn giản thế làm sao níu giữ được một đời người?”.

Làm sao một nụ hôn có thể níu giữ được một đời người?

Ba An không may trúng gió. Chị Hai gào khóc như mưa: “Ba ơi! Ba đừng bỏ con, rồi con sẽ lấy chồng cho ba vui lòng”. Chính chị Hai cũng không hiểu vì sao mình lại nói thế. Bác sĩ trầm ngâm rất nghề nghiệp, ba cháu có nhiều khả năng sẽ không đi lại được nữa đâu. Chị Hai líu lưỡi: Sao cũng được ạ, miễn là ba cháu đừng chết.

Bác sĩ phì cười: Thì có ai mong ba mẹ chết bao giờ. An đi trong bệnh viện, lần đầu tiên thấu tận tâm can thế nào là nỗi đau chênh vênh của sự mất mát. Ba An nằm đó, im lìm, da thịt ấm mềm mà linh hồn như đang  phiêu du ở tận trời nào.

An có cảm giác như những linh hồn đang nhởn nhơ bay lượn khắp thế gian, chốc chốc lại trở về nhìn chằm chằm như chế giễu cái xác: “Này ông, tại sao tôi và ông lại cứ nhất thiết phải là một, phải ở trong nhau và ràng buộc nhau?”. Những linh hồn với những tư tưởng tự do ấy, có linh hồn đã bay đi mãi mãi, có linh hồn không cam lòng dời bỏ cái xác nên đã vui lòng ở lại.

Rồi chị Hai của An cũng đi lấy chồng vào mùa hoa cải trổ vàng. Đám cưới giản dị, chân thành như tình yêu của họ. Quả thực, An không tin người ta có thể yêu nhau như thế. Thế gian này đang đòi hỏi khác kia. Đòi hỏi người ta yêu nhau phải ồn ào, náo nhiệt.

An đưa ra chính kiến: “Giới trẻ chúng em bây giờ đòi hỏi một lối sống thẳng thắn, thành thực, yêu là yêu, ghét là ghét”. Chị Hai cười nhạt: “Đó là ngụy biện. Yêu thì yêu, nhưng ghét là ghét tức là làm tổn thương người ta đấy. Mà hình như người ta không ai thích mình bị tổn thương. Ba mẹ nhìn nhau cười “Xem kia, chúng ta có những nhà chính kiến”.

Chị Hai đi lấy chồng, chị Cả lại hoàn tất cuộc li dị. Tài sản cưa đôi, con cái cưa đôi. Chị Cả đem con về ngôi nhà ven sông, quyết tâm ở vậy cả đời để chăm sóc ba mẹ. Chị quá mạnh mẽ. Những gì là của ta thì không là của người khác và ngược lại.

Năm nay, như một thói quen khó bỏ, An lại đi chơi phiên chợ chiều ba mươi. Chỉ không còn có chị Hai đi cùng. Chị Hai đã đi lấy chồng xa. An nhớ năm nào hai chị em đi chợ cũng phải về trước khi chợ tàn.

Chị Hai bảo không nên chứng kiến cảnh chợ tàn, bơ vơ hiu quạnh, cô đơn lắm. Về nhà, bao giờ cũng là lúc mẹ vớt bánh chưng xong, sai hai chị em bóc bánh để cúng tất niên. Bánh chưng mẹ An gói bao giờ cũng vuông chắc, vỏ bánh đậm màu xanh mát của lá dong.

Năm nay ba An bảo: “Hay là ta đặt mua vài cái bánh cho đỡ bận rộn”. Mẹ An phản đối: “Đặt là đặt làm sao? Cả năm mới có một cái Tết. Cả cái Tết mới có một nồi bánh chưng là quan trọng nhất. Đến cả bánh cũng đặt mua thì còn gọi gì là không khí Tết nữa”.

Ba An cười: “Tùy bà vậy”. An nhớ việc gói bánh chưng với mẹ An là rất quan trọng. Ngày trước, nhà còn ở khu tập thể nhà máy, bắt đầu từ 26, 27 Tết là cả khu đã rục rịch gói bánh. Vì nồi to để luộc bánh không nhiều nên phải gói bánh chung, hoặc thay nhau gói, thay nhau luộc. Không khí Tết thật rộn ràng, đầm ấm.

Nhà An bao giờ cũng gói và buộc bánh sau cùng. Nửa đêm, bên nồi bánh sôi ùng ục, chị em An quây quần đánh tú lơ khơ và đợi bánh chín, đợi luôn cả giao thừa. Bây giờ phần đông người ta mua bánh sẵn cho nhàn hạ. An không buồn cho họ, chỉ thấy nuối tiếc trong lòng.

Các chú ALiBôBô kéo nhau đến thăm ba, oang oang ôn lại chuyện xưa. An nghe chuyện đâm ra nghĩ ngợi: Hình như trên đời không ai sung sướng cả. Năm nay An đi chơi chợ một mình, về sớm hơn thường lệ. Tự nhiên thấy buồn, lang thang ra bãi bồi ngắm từng gốc đào trơ trụi.

Một vài cành đào hiếm nụ bị thương lái bỏ lại đang chúm chím những nụ hồng hiếm hoi. Niềm vui đến, niềm vui lại ra đi. An không giữ được bé Yến. Một nụ hôn mong manh làm sao níu giữ được một đời người ta?

Chị Cả theo sau An từ lúc nào. Hai chị em ngồi ngắm dòng sông lặng đổ về xuôi.

- Chuyện đời hết hợp lại tan. Kết thúc của việc này lại là khởi đầu cho những việc khác. Em việc gì phải buồn?

- Em có buồn đâu chị, không có gì tồn tại vĩnh hằng mà. Em chỉ nhớ chị Hai thôi. Chị ơi. Em quyết định rồi, em sẽ không học lái ôtô nữa đâu. Em sẽ ở nhà thay ba trồng hoa. Chị nhìn bãi soi bên kia sông mà xem, ở đó lâu rồi người ta không trồng trọt. Em sẽ trồng hoa ở đó. Để năm nào hoa cũng nở.

- Và mẹ nữa chứ, năm nào mẹ cùng gói bánh chưng và làm cơm tất niên.

Hai chị em khoác vai nhau cười lớn. Chiều cuối năm tắt lịm, để hôm sau, vạn vật sẽ bước sang một trang đời mới.

Phạm Thanh Thúy
Đài TT xã Thủy Xuân Tiên, Chương Mỹ, Hà Nội

MỚI - NÓNG