Cư dân phố cổ

Cư dân phố cổ
TP - Em gái tôi mấy năm nay theo chồng định cư hẳn trong Sài Gòn. Cùng lúc ấy cũng có vài lời mời công việc hấp dẫn, yêu cầu tôi chuyển hẳn vô đó công tác. Vui miệng tôi kể, cha mẹ tôi tỏ vẻ hốt hoảng, vì họ đâu biết rằng đời nào tôi chịu rời Hà Nội. 

Tôi cũng hơi giật mình vì thái độ hoảng hốt của phụ mẫu, thấy tồi tội. Vì họ chỉ còn mình tôi ngoài này, tôi chuyển đi nốt thì lấy ai làm chỗ dựa. Thấy thế tôi mới đùa rằng thì ba mẹ chuyển theo luôn. Cha tôi giãy nảy lên. Đối với ông, rời khỏi phố cổ để di cư ra quận khác cách đó vài cây số còn là chuyện bất khả, huống hồ đi tận Sài Gòn.

Tôi có cô bạn quê Sơn Tây, sống quê nhà vài năm thơ ấu thì chuyển về Hải Phòng, đến tuổi trưởng thành thì bỏ vào Sài Gòn làm, được vài năm lại ra Hà Nội học đại học, rồi về Hải Phòng, quay lại Sơn Tây, giờ định cư ở Mỹ. Thế mà nàng vẫn còn nhòm ngó mua nhà ở Nha Trang sống lúc tuổi già. Tóm lại cuộc đời nàng mỗi thành phố chỉ đậu có gần chục năm. Thấy tôi nhiều cơ hội tốt ở Sài Gòn mà vẫn dính chịt lấy Hà Nội, nàng bảo tôi nhát. Xong thấy cha mẹ tôi cũng hoảng loạn khi tưởng bị ép “rời đô”, nàng bảo nhà tôi có gene nhát giống nhau. Nàng, một người không gắn bó với nơi nào quá 10 năm, đến mãn kiếp cũng không hiểu được thứ cảm xúc gắn kết đặc biệt của những cư dân phố cổ, mà tôi gọi đùa là “Hội chứng bị thần Rùa ám”, những người mà có đi đâu, làm gì cũng chỉ loanh quanh trong bán kính hai cây số, tính từ kilomet số 0. Ngay cả tôi, khi đã đủ can đảm để chuyển nhà (chuyển ba lần, mỗi lần ra xa thêm một tí cho… đỡ sợ), cũng không thể đôi lúc thôi bực mình vì tư duy của “dân phố cũ”.

Cư dân phố cổ ảnh 1 Những góc Hà Nội

Lớp phổ thông tôi có hơn 50 người mà chỉ nhõn hai nàng lấy chồng ở nước ngoài nên định cư bên ấy, còn đâu ở tịt Hà Nội hết. Sau 20 năm gặp lại thấy nhà cửa vẫn nguyên vị trí như mấy chục năm về trước. Lớp cũ hồi ấy toàn dân phố cổ (không cổ Hàng Ngang, Hàng Đào thì cũng luẩn quẩn khu Pháp cổ Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Gia Thiều, Hạ Hồi), nên tôi mới nghi bọn chúng đăng ký thi vào Việt Đức có lẽ cũng chẳng phải vì danh tiếng gì của trường ấy mà chỉ đơn giản đấy là trường trung học... gần cụ Rùa nhất cũng nên.

Mà tụi phố cổ bị thần Rùa ám, nên đi đâu thì đi, toàn lấy tháp Rùa làm trục, rồi cứ vượt quá bán kính chuẩn mực độ 500 mét là chúng kêu xa thế. Có phải vì thế mà hỏi ra nhiều đứa lấy chồng lấy vợ sinh con rồi kêu nhà tớ vẫn ở Chợ Gạo, vẫn Hàng Bạc, vẫn Tạ Hiện. Nhà có chật, ngõ có hẹp cũng kệ. Đố có đứa nào rời nổi tháp Rùa. Anh nào trót lấy vợ phố cổ thì bị bắt… ở rể. Mỗi lần tôi có nhã ý mời “phố cổ” về nhà chơi là thế nào chúng cũng vừa đi vừa hoang mang vì không biết đang bị dẫn đi đâu.

Cư dân phố cổ ảnh 2 Hồ Hoàn Kiếm - Trái tim của Thủ đô

Phố cổ Hà Nội thực chất có hai khu. Một là khu phố Hàng đã tồn tại qua bao thế kỷ. Ai có người quen trên ấy rồi được dịp lên thăm thì quả là thất kinh vì những con ngõ dài, hẹp và tối thăm thẳm như lối vào lô cốt. Mùi ẩm mốc, cổ lỗ được lưu cữu từ vài trăm năm như bủa vây lấy khách đường xa. Từ con ngõ tối mò bất tận tỏa ra những căn hộ tí hon, thấp tè dọc theo lối vào, mà nhẽ từ thời nhà Lý đã chẳng bao giờ có ánh sáng mặt trời, bởi cửa ra vào và cửa sổ duy nhất quay ra cái ngách còn chả có nổi vảy sáng cho mình.

Hồi còn học phổ thông, lũ chúng tôi hay mang vải lên một cô hàng thợ may phố hàng Buồm. Căn phòng hơn chục mét vuông của cô quanh năm phải bật điện, ngày cũng như đêm. Ánh đèn neon nhờn nhợt không đủ tỏ những viên đá hoa xanh cốm cổ xưa, mà trên đó đã bị vải vóc và phụ kiện phủ kín đến nỗi bữa nào khách đến đông thì cứ đứng lúp xúp xung quanh chiếc máy khâu mà trao đổi chứ khỏi có chỗ ngồi.

Nhà phố cổ thường có sân giữa, từ ấy sẽ loắt ngoắt cầu thang dẫn lên những căn hộ “bí ẩn” ở tầng hai, mà có một thời vô khối bài báo nói về nỗi kinh hoàng của những toilet chung trên phố cổ. Thì phải, nhà ở còn có dăm mét vuông thế, lấy đâu ra chỗ cho toilet. Thế mà người ta vẫn quý lắm từng ô đất phố cổ. Tôi có chị hàng xóm cùng chung cư, người Hải Phòng chuyển về, đồng thời cũng là phụ huynh một học sinh lớp con gái tôi. Nhà chị 150 mét vuông căn góc, ánh sáng tràn đầy. Vậy mà vẫn còn kêu chật chội.

Hôm phụ huynh tụ họp dã ngoại, chị bảo nhà phố cổ có cho không chị cũng chả ở, thà lên rừng ở còn sướng hơn. Thấy vậy một phụ huynh phố cổ chạnh lòng lên tiếng phản biện. Từ đó nổ ra một cuộc tranh cãi. Kẻ bảo lên rừng ở còn đỡ khổ hơn, người kêu sống phố cổ sướng như vua, thứ gì cũng có, đi đâu chỉ cần tản bộ ba bước chân là đến được nơi mình muốn, mua được thứ mình cần. Tôi tủm tỉm ngồi nghe, y như một ông Tây với một ông Ta cãi nhau xem pho mát hay mắm tôm thứ nào thơm hơn.

Khu phổ cổ thứ hai hình thành từ thời Pháp, bắt đầu từ phía Nam và phía Đông của hồ Hoàn Kiếm rồi kéo dài xuống tận đường Bà Triệu và Nguyễn Thái Học. Nếu như khu phố Hàng chằng chịt như bàn cờ, nó được thiết kế đúng như tính cách đại khái của người Việt thì khu Pháp cổ vuông vắn và khoa học, mà nơi đẹp nhất là phố Tràng Tiền, đứng đấy thì cũng như đang giữa quận Paris thôi. Song song với nó là Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Trần Nhân Tông, tới đấy là hết. Hồ Thiền Quang chính là ranh giới kết thúc khu phố cổ này. Từ Vân Hồ, Kim Liên, Bạch Mai trở đi là người Pháp không ở. Họ xây nhà để phục vụ cho các quan chức Pháp và nhân viên cao cấp làm cho các sở Pháp, chính vì thế, kiến trúc Đông Dương ở khu vực Pháp cổ thực sự đã trở thành một đặc sản của Hà Nội.

Những con phố chạy dọc từ đầu hồ Gươm phía Bắc, đến phía Nam, về hướng hồ Thiền Quang là Hàng Bài, Phố Huế, Bà Triệu, Quang Trung, Quán Sứ, Trần Bình Trọng, kết nối với các trục phố ngang thành một trung tâm sang trọng của Thủ đô. Ở nơi ấy có hồ Thiền Quang (Halais) là linh hồn của khu Pháp cổ, với mùi hoa sữa mát lạnh thực sự đã trở thành tuổi thơ tôi. Tôi lớn lên ở khu phố này, nơi ba đời đằng ngoại chỉ sống quanh Nguyễn Thượng Hiền, Yết Kiêu, Vũ Hữu Lợi và Đỗ Hành. Mẹ tôi kể hoài về cư dân vùng ấy, từ thời lính đánh thuê da đen còn đi lại kìn kìn trên vỉa hè Nguyễn Thượng Hiền, thấy cô bé xinh đẹp mũm mĩm là mẹ đương chơi thơ thẩn, mấy anh lính xa nhà mới bế bổng lên cưng nựng khiến mẹ tôi sợ chết khiếp mà không dám khóc. Bà nhắc đi nhắc lại chuyện lính da đen tới mức tôi thuộc lòng.

Bà cũng kể đầu phố đằng Đông phố Vũ Hữu Lợi có nhạc sĩ Văn Cao ở, đầu phố đằng Tây có nhà văn Nguyễn Tuân, còn số 7 giữa phố là nhà văn Trần Dần, ngay đối diện nhà bà ngoại tôi ở số 8. Nhà văn Tế Hanh, Nguyễn Văn Bổng và một loạt tên tuổi lớn thì xế bên kia Nguyễn Thượng Hiền. Còn nhà các bác Tô Hoài, Kim Lân tôi cũng đã ghé, ngay khu Trần Quốc Toản thôi. Chả phải đất hồ Thiền Quang thiên thời địa lợi là thế mà thi ca nhạc họa cứ phát ầm ầm?   

Tôi mở mắt chào đời đã nhìn thấy những ngôi nhà Pháp cổ bao quanh tứ bề, với giàn hoa giấy đủ màu sắc lã chã trên tường biệt thự, những ô cửa chớp xanh lá khổng lồ, những bức tường vàng lốm đốm rêu màu lục sậm, những cánh cửa sắt cổ kính và cả khoảnh sân lát gạch rộng lớn và yên tĩnh dẫn vào khu vực từng là gara ô tô của người Pháp. Ngay cả bây giờ, nếu bỏ qua những tiệm cà phê, nhà hàng, shop thời trang dưới tầng trệt mà chỉ ngước lên các ban công cửa đóng then cài còn nguyên kiến trúc style Indochinois thì một trời mơ mộng và sang trọng vẫn còn nguyên đó. Mà nhiều lúc tôi đồ rằng gu thẩm mỹ của mình bỗng dưng được nâng lên mấy bậc là vì từ nhỏ đã tối ngày được phủ sóng thị giác bởi không gian đẹp đẽ này. Trường tiểu học, cấp hai và phổ thông của tôi cũng nằm kề ngay bên hồ Thiền Quang, đến độ tuần lễ tập quân sự chúng tôi cũng được thầy giáo đưa ra hồ mà huấn luyện ngay dưới những bóng cây sữa chưa đến cữ đông. Rồi hết buổi thì học trò lại lẽo đẽo đi dọc phố Quang Trung mà trở về trường, đứa nào biếng học thì chuồn luôn sang bên kia đường là mở cổng sắt vào được đến nhà.

Lại nói chuyện cha tôi, một dân sành ẩm thực của đất Hà thành mà sổ tay ăn uống của ông đã trở thành kim chỉ nam cho bạn hữu. Hễ cần ăn đâu ngon là người ta lại phải hỏi ông. Thậm chí đến cô con gái ruột đã viết hai cuốn tùy bút ẩm thực mà ông vẫn còn nhìn vẻ khinh khi, chỉ vì vẫn còn chưa biết đến một quán bún bung nằm trong con hẻm nhỏ của phố cổ mà nồi nước dùng của nó là vô đối ở Tổ quốc này. Hồi còn tiểu học, tôi vẫn còn hay được bám càng cha tôi trên chiếc xe đạp Mi pha.

Thi thoảng ông hay cho tôi lên Lò Sũ ăn vặt, vài lần đều không quên rẽ qua hàng nộm bò khô ở con phố ngắn nhất nước Việt, mà ông bảo ông vẫn hay ăn ở đấy hồi còn học… lớp 7, lúc xin bà nội tôi tiền tiêu vặt để cùng chúng bạn đạp xe từ ô chợ Dừa lên hồ Hoàn Kiếm để ăn nộm bò. Nghĩa là cha tôi đã ăn nộm bò ở đấy trong suốt… 70 năm, từ thời ông tổ nộm bò còn khua kéo lách cách và nộm trộn xì dầu chứ không xài nước mắm như bây giờ, cho tới đời con, đời cháu, đời chắt của ông nộm bò. Hèn chi các văn tổ của dòng tùy bút ẩm thực là Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng… đều lớn lên ở Hàng Gai, Hàng Bạc, sẵn quán ngon để ăn, lại sẵn tiền tiêu vặt (gia đình các ngài ấy đều có cửa hàng cửa hiệu phố cổ) nên rằng thì là mới đắm đuối món ngon Hà Nội làm vậy.

Cha tôi không chỉ ngán ngẩm khi mỗi lần đến thăm tôi ở tít nẻo đường vành đai, vừa xa xôi lại vừa chẳng có quán ăn chuẩn mực, mà còn nông nỗi ở xa trục tháp Rùa, ông không thể gặp bạn hữu. Cũng bởi nửa thế kỷ nay, ở ông tồn tại thứ văn hóa bất di bất dịch có lẽ chỉ thấy ở người Hà Nội, Sài Gòn là thói quen uống cà phê sáng. Sáng nào cũng vậy, nếu tôi lên phố cần gặp ông mà không liên lạc được thì cứ đúng giờ đó, chỉ cần ghé qua ba quán cà phê ở khu vực Trần Hưng Đạo và Nhà hát Lớn là thế nào cũng tìm được ông ở một trong ba quán, giữa hai chục “ông cụ” tóc bạc phơ đã từng có thời là “giai phố cổ”.

Những con người có khuôn mặt tươi như hoa đầy phấn khích bên tách cà phê thơm lừng ấy là các nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh hoặc những tay buôn đồ cổ có tiếng, đã có mối quan hệ thâm giao với cha tôi tới ba phần tư thế kỷ, thậm chí còn là bạn từ thời tiểu học, lúc bảo tàng Lịch sử vẫn còn mang tên bảo tàng Louis Finot, Nhà thờ Lớn còn là Cathédrale Saint-Joseph, trường Việt Đức của tôi là École Puginier và phố Quang Trung thì mang tên đại lộ Jauréguiberry. Mấy chục năm là bạn hữu thân thiết, ngày nào cũng gặp, còn hơn cả tôi rúc rích cùng mấy cô bạn thân thuở trung học, bảo sao ông chả giật nỏm mình khi tôi đùa “Thì ông ngoại vô Sài Gòn ở luôn cùng con cháu”. Nếu hiểu hết cái “hội chứng thần bí” này của các cư dân phố cổ, thì sẽ thấy rằng ngay cả câu đùa ấy cũng là tàn nhẫn. Cư dân phố cổ, họ thuộc lòng từng cửa hàng bán đinh, quầy chữa đồng hồ, tiệm bơm ga bật lửa, hay ô bán mắm tép cực đỉnh giữa chợ Hàng Bè. Thậm chí một bà già chuyên nghề mạng sang sợi chỉ cần để cái hộp gỗ ngoài vỉa hè rồi lên nhà ngủ trưa mà khách quen cũng biết đường gọi xuống đưa cái váy thủng để mạng thành hình bông hồng.

Cư dân phố cổ ảnh 3  

Cư dân phố cổ không chỉ yêu PHỐ, say PHỐ mà còn truyền cả cái gene ấy cho con cái họ. Chả phải cha mẹ tôi ngày nào cũng kể không ngớt những câu chuyện cổ tích của hồn phố, từ cái ngày phố Lý Nam Đế còn là phố Yêu, là vì nó luôn nhiều cây và vắng đến độ các cặp đôi yêu nhau toàn mò đến đấy để tản bộ và tâm tình, trước khi biến thành phố máy tính luôn ầm ĩ và kẹt xe vào nửa thế kỷ sau. Riết rồi tôi cũng thao thao bất tuyệt những câu chuyện ấy cho con gái tôi nghe, mỗi lần đi qua những tòa nhà kiến trúc Đông Dương đang nhuộm ánh hoàng hôn. Chỗ này mẹ toàn trèo tường trốn học. Đấy góc hồ này mẹ với cô Thủy hay chụp ảnh bằng chiếc máy ảnh cùi bắp màu đỏ. Còn đường Lê Duẩn mẹ toàn đạp xe một mình, có lần lên tận hồ Tây. Đây là hàng chè thập cẩm ngon nhất châu Á, mẹ với cô Giáng Hương hay ăn mỗi lần đi học thêm. Con gái tôi lớn lên ở quận Cầu Giấy, nó ngẩn ngơ nhìn phố cổ, và nó yêu PHỐ tới mức mọi thứ của phố cổ đều đã trở thành chuẩn mực.

Chả phải yêu phố mà nhà văn Nguyễn Việt Hà, cư dân của phố Nhà Chung, đã viết “Con giai phố cổ” với niềm tự hào không giấu giếm phân chia sự khác biệt giữa giai phố và giai… ngoại vi. Còn họa sỹ Lê Thiết Cương, người sở hữu căn nhà đắt đỏ ngay mặt phố Lý Quốc Sư thì ngạo phố tới mức xe máy không đi, ô tô không lái mà… đi bộ, bất quá thì đi xe đạp, thể hiện cái sự tôi đây chả cần phải đi đâu quá 500 mét. Ai có việc gì cần gấp thì đến gõ cửa Lý Quốc Sư, bằng không có hẹn gì cũng chỉ quanh quẩn ngoài PHỐ thôi nhé. Có bận chúng tôi có cuộc hẹn bốn người bên hồ Thiền Quang, anh bảo chờ anh tí, anh đạp xe đến đấy tối đa là mất 10 phút. Vậy là đúng 7 phút sau, tôi thấy gã nghệ sĩ tài hoa phố cổ trong chiếc quần màu da cam thong dong dựng xe ở một gốc cây hoa sữa. Có nhẽ Lê Thiết Cương đã nghĩ, có đi đâu thì cự li 10 phút đạp xe mới đúng là chuẩn mực.

Cư dân phố cổ không chỉ yêu PHỐ, say PHỐ mà còn truyền cả cái gene ấy cho con cái họ. Chả phải cha mẹ tôi ngày nào cũng kể không ngớt những câu chuyện cổ tích của hồn phố, từ cái ngày phố Lý Nam Đế còn là phố Yêu, là vì nó luôn nhiều cây và vắng đến độ các cặp đôi yêu nhau toàn mò đến đấy để tản bộ và tâm tình.

Kẻ bảo lên rừng ở còn đỡ khổ hơn, người kêu sống phố cổ sướng như vua, thứ gì cũng có, đi đâu chỉ cần tản bộ ba bước chân là đến được nơi mình muốn, mua được thứ mình cần.

Chả phải yêu phố mà nhà văn Nguyễn Việt Hà, cư dân của phố Nhà Chung, đã viết “Con giai phố cổ” với niềm tự hào không giấu giếm phân chia sự khác biệt giữa giai phố và giai… ngoại vi.

MỚI - NÓNG