Cụ thể, công văn số 14869 của Bộ Tài chính do Thứ trưởng Vũ Thị Mai ký ngày 20/10 nêu rõ về giải pháp giảm thuế tài nguyên đối với mặt hàng than.
Bộ Tài chính cho biết hiện nay mức thuế tài nguyên đối với mặt hàng than là 10% và 12% quy định tại Nghị quyết số 1084 năm 2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 13 về Biểu mức thuế suất tài nguyên. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2016. Theo đó việc xem xét sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, mức thuế suất tài nguyên quy định tại Nghị quyết số 1084 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 13 vừa mới ban hành nên cần có thời gian để tổng kết đánh giá. Mặt khác, việc đề nghị thay đổi mức thuế suất của từng sắc thuế căn cứ trên kiến nghị của một đơn vị cần được cân nhắc kỹ nhất là trong bối cảnh ngân sách nhà nước đang khó khăn.
Hiện sản lượng khai thác hàng năm của 3 mỏ thuộc TKV là Vàng Danh, Uông Bí, Nam Mẫu là 8,5 triệu tấn than, trong đó khoảng 35% (tương đương 3 triệu tấn than) là than có chất lượng cao, trong nước ít có nhu cầu sử dụng. Trong khi đó, giá than nhập khẩu thấp hơn giá bán trong nước nên các nhà máy điện, xi măng giảm sản lượng mua từ TKV nên lượng tồn kho tăng trong khi lượng than xuất khẩu theo kế hoạch tính cho từ năm 2017-2019 là 2 triệu tấn/năm.
Để tháo gỡ khó khăn trước mắt cho TKV trong bối cảnh hiện nay, Bộ Tài chính đề xuất Bộ Công Thương điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu than giai đoạn 2017 - 2020 từ 2 triệu tấn/năm lên 3 - 4 triệu tấn/năm. "Đây là giải pháp khả thi hơn so với phương án giảm thuế xuất bởi vừa giảm được lượng than tồn kho mà trong nước ít có nhu cầu sử dụng vừa không thay đổi thu ngân sách", Bộ Tài chính cho hay.