40 năm, xem lại 'Bao giờ cho đến tháng Mười '

0:00 / 0:00
0:00
TP - Trung tuần tháng 3/2023, tuần lễ chiếu phim miễn phí tại Đà Nẵng nhân kỉ niệm 70 năm ngày thành lập ngành điện ảnh Việt Nam, tôi có cơ hội lần đầu được xem "Bao giờ cho đến tháng Mười" của đạo diễn Đặng Nhật Minh, bộ phim ra đời năm 1984, tròn 15 năm trước khi tôi chào đời...
40 năm, xem lại 'Bao giờ cho đến tháng Mười ' ảnh 1
Cuộc đoàn tụ của Duyên và người chồng đã hy sinh tại phiên chợ Âm Dương. Ảnh: TL

Đây là một trong những bộ phim quan trọng nhất của nền điện ảnh Việt Nam vì đã lột tả chân thật đời sống nội tâm phức tạp của những người sống ở hậu phương thời kì chiến tranh mà không đặt nặng yếu tố tuyên truyền như nhiều bộ phim cách mạng khác thời bấy giờ.

Bộ phim được đứng cùng với các tên tuổi nổi tiếng thế giới như Akira Kurosawa, Trương Nghệ Mưu, Vương Gia Vệ, Bong Joon-ho trong danh sách 18 phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại của đài truyền hình CNN. Bộ phim cũng đã đạt được nhiều giải thưởng quan trọng của quốc tế và Việt Nam.

Lời nói dối của người ở lại

Bao giờ cho đến tháng Mười kể về nỗi đau tột cùng của Duyên (NSƯT Lê Vân) khi nhận được tin người chồng đã hy sinh ở mặt trận Tây Nam. Người vợ trẻ choáng váng ngất xỉu lăn ra sông, suýt chết đuối nếu không được thầy giáo Khang (NSƯT Nguyễn Hữu Mười) nhảy xuống cứu. Nhờ vậy, anh cũng tình cờ biết được hung tin này và cả hai cùng nhau dựng lên một lời nói dối để bảo vệ người bố già cả của chiến sĩ Nam (chồng Duyên) khỏi chịu nỗi đau mất con một lần nữa (anh trai của Nam cũng đã hy sinh thời chống Mỹ), đồng thời Duyên cũng hi vọng rằng chồng cô vẫn còn sống sót ở đâu đó ngoài kia và giấy báo tử này chỉ là một nhầm lẫn mà thôi.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh viết nên bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười dựa trên những trải nghiệm nỗi đau của chính gia đình ông khi người thân ngã xuống trên chiến trường, như hàng vạn, hàng triệu gia đình khác trên đất nước Việt Nam trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đó là lí do khiến câu chuyện trong phim chân thật đến như vậy.

Yếu tố phản đối chiến tranh hiện rõ xuyên suốt bộ phim. Dù là một bộ phim lấy đề tài chiến tranh, Bao giờ cho đến tháng Mười không chọn cách thể hiện nỗi tang thương thông qua hình ảnh xác chết đẫm máu nằm la liệt hay âm thanh bom đạn kinh hoàng như thường thấy ở thể loại phim này. Thay vào đó, nỗi đau được đặc tả thông qua cuộc sống đời thường của những người ở hậu phương.

Thanh niên trong làng đã nhập ngũ hết, để lại cha mẹ, vợ con ở nhà với nỗi chờ đợi khắc khoải. Những người luôn sống trong sự bất an khi không biết lá thư tiếp theo được gửi về sẽ viết gì trong đó.

40 năm, xem lại 'Bao giờ cho đến tháng Mười ' ảnh 2
Đạo diễn Đặng Nhật Minh ở độ tuổi 82. Ảnh: TL

Một trong những thông điệp lên án chiến tranh mạnh mẽ nhất của bộ phim, đó là cách nó xoáy sâu vào những con người bình thường, những người không mang trên mình bất kì thứ huân huy chương, quân phục hay quân hàm nào cả.

Họ không trực tiếp đối đầu với chiến tranh để đem lại vinh quang cho Tổ quốc, thay vào đó họ âm thầm hỗ trợ bằng cách tăng gia sản xuất và giáo dục thế hệ mai sau. Giống với những người lính, họ cũng là những con dân của đất Việt, cùng tính cách đặc trưng và ước mơ, hoài bão cũng như khó khăn của cá nhân mình, và những điều này đã bị chiến tranh tước đoạt.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã đẩy nỗi đau của Duyên lên thêm một bậc nữa, đó là cho cô vào tình thế trớ trêu, tiến thoái lưỡng nan khi phải một mình đối diện với tin chồng chết. Cô đã sốc tới mức ngất lăn xuống sông nhưng ngay sau khi về nhà cô lại phải niềm nở tiếp đón hàng xóm như chưa có gì xảy ra; một giấc mơ về kỉ niệm đẹp của hai vợ chồng lại được tiếp nối bởi cơn ác mộng về những người lính lao vào biển lửa và kết thúc bởi một loạt đạn vang trời. Hay phân cảnh đám giỗ tại nhà, Duyên run rẩy trốn sau bức tường nghe từng lời lẽ của bức thư giả dạng Nam do thầy Khang viết được đọc to lên trong niềm vui phấn khởi của cả đại gia đình. Duyên muốn khóc thương và đưa tiễn chồng một cách đàng hoàng theo nghi thức tang lễ truyền thống để đưa anh sang thế giới bên kia nhưng điều này giờ đây không thể được.

Duyên kìm nén nỗi đau xuyên suốt bộ phim và điều gì đến rồi cũng sẽ đến, những cảm xúc đè nén trong lòng cô đã tuôn trào ra khi đang diễn vở chèo Trương Viên trường đoạn người vợ tiễn chồng lên đường ra trận và nguyện thay anh chăm sóc mẹ già. Vở chèo Trương Viên là một tác phẩm hoàn hảo để Duyên bày tỏ nỗi lòng giấu kín bấy nay.

Duyên cùng ở trong tình cảnh giống nhân vật Thị Phương của vở chèo, người mất chồng diễn cảnh người tiễn chồng. Càng ca những câu chèo, cô càng tự mình lột tả những suy nghĩ, cảm xúc và nỗi đau đớn, để rồi đến khi đã lột bỏ đến lớp nội tâm cuối cùng, cô không chịu được nữa mà òa khóc chạy đi trước nỗi bàng hoàng của mọi người. Đây là một thủ thuật làm phim tài tình của đạo diễn Đặng Nhật Minh.

Trong phân đoạn khi Duyên mơ về kỉ niệm hạnh phúc với chồng trước khi anh lên đường ra trận, Nam say mê thả diều còn cô thì trêu chọc anh là đồ con nít vì lớn rồi mà còn chơi trò này. Nam dắt cô đến miếu làng và đốt chiếc diều ngay tại nơi này như một cách từ biệt cuộc sống cũ, đốt đi cái tinh thần vui tươi và tâm hồn “trẻ ranh” như những người bạn của Duyên gọi anh nhằm trở thành một người trưởng thành để hỏi cưới Duyên và bước vào cuộc chiến tranh vệ quốc khốc liệt. Bằng những thủ thuật kể chuyện độc đáo như vậy, bộ phim đã làm bật lên được sự hy sinh lớn lao của những con người bình dị.

Câu kinh trầm của người ra đi

Duyên chạy ra miếu thờ thành hoàng nơi khi xưa Nam dắt cô tới và đốt chiếc diều, tại đây cô gặp linh hồn của một chiến sĩ từng đánh đuổi quân Nguyên Mông và hi sinh, để lại người vợ trẻ giống như tình cảnh của Nam bỏ Duyên mà đi. Nỗi đau của người thân những người lính đã hi sinh vì sự bình an của đất nước là nỗi đau dằng dặc đã biết bao đời nay. Từ những trận chiến chống giặc Ân, Nguyên Mông, thực dân Pháp cho đến đế quốc Mỹ, mỗi người lính ngã xuống trên chiến trường là một nỗi đau ghim thẳng vào tim những người cha, mẹ, vợ, con ở hậu phương.

Linh hồn chiến sĩ năm xưa đã nói với Duyên rằng: “Chồng chị chỉ sống trong tâm tưởng của người đời mà thôi, ta còn sống đến bây giờ cũng chính là vì vậy”. Sự tưởng nhớ của người còn sống đã hun đúc nên sự bất tử dành cho người đã khuất, trong khi chính người đã khuất lại mong rằng người còn sống hãy cứ sống tiếp cuộc đời mình vì họ vẫn còn trải nghiệm được tương lai.

Bao giờ cho đến tháng Mười là một tác phẩm điện ảnh đích thực, một bộ phim đượm nỗi buồn đau sâu lắng, nhưng đầy ắp nhân văn và niềm hy vọng. "Bao giờ cho đến tháng Mười/Lúa chín trên cánh đồng giông bão/Ta để lại sau lưng những ngày dài mong đợi/Những mất mát, hy sinh, chịu đựng, khổ đau/Khi trời thu vẫn xanh mãi trên đầu"...

Trường đoạn về phiên chợ Âm Dương trong phim hiện lên đầy siêu thực và ma mị thông qua cách sử dụng sự tương phản mạnh giữa ánh sáng và bóng đêm, kĩ thuật trang điểm cho những linh hồn.

Tuy vậy, không gian này không lạnh lẽo và đáng sợ như cái tên mà nó vô cùng ấm áp và đầy tình người. Trong làn khói sương huyền bí và đứng trên mặt nước dường như vô tận nơi phiên chợ Âm Dương, đôi vợ chồng được đoàn tụ cùng nhau, muốn nắm tay nhau nhưng không thể, đó là sự tương tác giữa một cơ thể bằng xương bằng thịt với một linh hồn không còn thể xác nhưng vẫn còn lưu luyến khát khao được chạm vào.

Linh hồn chiến sĩ Nam gửi gắm cho Duyên rằng: “Anh chỉ muốn những người sống được hạnh phúc. Chỉ có những người đang sống mới làm được điều đó. Anh đã làm xong phần việc của mình. Cái gọi là mãi mãi anh không thể nhìn thấy được”. Lời dặn dò của linh hồn người lính ấy vang lên như câu kinh trầm tan vào khung cảnh nửa hư nửa thực đầy tính đặc trưng của văn hóa Việt Nam.

MỚI - NÓNG