Bị cáo Nguyễn Thành Trung bị truy tố về tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo khoản 4 (khoản có khung hình phạt nặng nhất đối với tội này, từ 7 năm đến 15 năm tù) Điều 250 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Hồng Hà (nguyên Trung tá, nguyên Đội trưởng Đội CSGT, Công an Khánh Sơn), Vũ Anh Trung (nguyên Thiếu tá, nguyên Đội trưởng Đội Cảnh sát Kinh tế - Môi trường, Công an Khánh Sơn), Trần Lệ Kiên (nguyên Thượng úy, nguyên Phó đội trưởng Đội Cảnh sát Thi hành án hình sự - Hỗ trợ tư pháp, Công an Khánh Sơn), Luân Văn Nam (trú thôn Dốc Gạo, thị trấn Tô Hạp, Khánh Sơn) bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, theo khoản 3 Điều 281 Bộ luật Hình sự.
Theo cáo trạng, giữa tháng 9/2012 có hàng nghìn người đến đào bới, tìm kiếm trầm kỳ ở khu vực rừng Gộp Ngà (Sơn Trung, Khánh Sơn). Tối ngày 26/9/2012, Vũ Anh Trung, Nguyễn Hồng Hà, Trần Lệ Kiên, Luân Văn Nam đã giữ và bán hai cục trầm kỳ thu của người dân, gây thiệt hại lợi ích nhà nước 4,15 tỷ đồng. Bị cáo Nguyễn Thành Trung biết hai cục trầm kỳ là tài sản do phạm tội mà có, nhưng vẫn đứng ra thực hiện việc mua bán, đưa ra tỷ lệ ăn chia nhằm mục đích vụ lợi cá nhân.
Nhân chứng vắng, cảnh sát bảo vệ đông.
Xét xử sơ thẩm (lần 1) vụ án này từ ngày 18/6/2014 đến ngày 20/6/2014, TAND huyện Khánh Sơn tuyên phạt Nguyễn Hồng Hà và Vũ Anh Trung 5 năm 6 tháng tù, Trần Lệ Kiên 5 năm tù, Luân Văn Nam 3 năm tù, tuyên phạt Nguyễn Thành Trung 10 năm tù. Ông Nguyễn Thành Trung kháng án, phủ nhận việc tham gia bán trầm kỳ. Theo ông Trung, tối ngày 27/9/2012 không ngồi ở cà phê Góc Núi (thị trấn Tô Hạp) để bàn việc bán trầm kỳ, mà nhậu với một số người tại quán Hương Quê ở thành phố Cam Ranh (Khánh Hòa).
Ngày 29-30/9/2014, TAND tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm (lần 1) vụ án. Các nhân chứng Phan Hồng Ngọc, Đỗ Nguyên Tuấn và Nguyễn Quốc Khanh khai, cùng dự cuộc nhậu đêm 27/9/2012 ở quán Hương Quê với họ và ông Nguyễn Thành Trung có ông Nguyễn Thành Phấn, Chánh án TAND huyện Khánh Sơn và ông Nguyễn Văn Phương, Viện trưởng VKSND huyện Khánh Sơn. Xét thấy đây là tình tiết quan trọng, Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm hình sự số 05/2014/HSST ngày 20/6/2014 của TAND huyện Khánh Sơn để điều tra, truy tố lại. Ngày 12/5/2015, VKSND tỉnh Khánh Hòa ra cáo trạng mới của vụ án này, không thay đổi nội dung truy tố ông Nguyễn Thành Trung của cáo trạng trước.
Ngày 22/7/2015, TAND tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm (lần 2) vụ án này. Do hai luật sư (LS) bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Nguyễn Thành Trung là luật sư Nguyễn Đình Thơ (Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa) và luật sư Lê Văn Minh (Đoàn Luật sư Hà Nội) đều vắng mặt và chỉ có 10/44 nhân chứng được Tòa triệu tập có mặt tại phiên xét xử, nên Hội đồng xét xử đã tuyên tạm hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa ngày 12/8, chỉ có 8/44 nhân chứng có mặt, vắng những nhân chứng quan trọng như Phan Hồng Ngọc, Đỗ Nguyên Tuấn, Nguyễn Quốc Khanh và nhân chứng Trần Văn Khánh (trưởng một nhóm đào được cục trầm kỳ tối ngày 26/9/2012). LS Nguyễn Đình Thơ đề nghị HĐXX tạm dừng phiên tòa để áp giải các nhân chứng này tới tòa. Tuy nhiên ngay sau đó, ông Ngọc và ông Tuấn xuất hiện. Sau khi hội ý, HĐXX quyết định tiếp tục phiên tòa.
Khi bị cáo Nguyễn Thành Trung được gọi hỏi, các bị cáo khác và các nhân chứng dự cuộc nhậu đêm 27/9/2012 bị cách ly. Bị cáo Nguyễn Thành Trung khai, khoảng 17h ngày 27/9/2012 được ông Nguyễn Quốc Khanh gọi đến nhậu ở quán Hương Quê, khoảng 19h bị cáo tới quán. Thẩm phán Trần Hữu Viên, chủ tọa phiên tòa đọc lời khai của nhân chứng Nguyễn Quốc Khanh, theo đó khoảng 22h bị cáo Trung mới tới. Về việc này, bị cáo Nguyễn Thành Trung khai, là khách quen của quán Hương Quê nên biết, khoảng 21h30 là quán vắng khách rồi.
“Tôi là người người bình thường, không bị thần kinh, mặt mũi nào mà được mời lúc 5 giờ chiều, đến 10 giờ tối mới tới”, bị cáo nói. LS lê Văn Minh hỏi, nếu trích xuất dữ liệu các cuộc gọi điện thoại đi và đến của bị cáo Nguyễn Thành Trung trong buổi chiều và tối ngày 27/9/2012 có chứng minh được tình trạng ngoại phạm của bị cáo? Bị cáo nói, ông ta đề nghị cơ quan điều tra xác minh qua các cuộc gọi điện thoại trong ngày 27/9/2012 của ông ta.
Bị cáo Nguyễn Thành Trung bị thẩm vấn đầu tiên.
Trả lời câu hỏi của LS Lê Văn Minh về lời khai của 5 nhân chứng Ngọc, Khanh, Tuấn, Phấn, Phương, bị cáo Trung khai rằng các nhân chứng đó đều xác nhận bị cáo có dự cuộc nhậu, nhưng lời khai của họ có khác nhau về thời gian bị cáo đến quán Hương Quê. Theo bị cáo, lời khai của nhân chứng Phan Hồng Ngọc là đúng.
Chủ tọa phiên tòa đọc lời khai của các nhân chứng Phạm Thanh Túc, Phạm Thanh Tùng, Bùi Khắc Dũng, Lê Anh Luân… về việc bị cáo Nguyễn Thành Trung nhận hai cục trầm kỳ, mang đi xác nhận đó là kỳ nam, tìm người bán, mang tiền đưa cho bị cáo Luân Văn Nam… Bị cáo Nguyễn Thành Trung phủ nhận lời khai của các nhân chứng đó, cho rằng các lời khai không đúng, không rõ ràng, có những lời khai của cùng một nhân chứng mâu thuẫn nhau, lời khai của nhân chứng này không khớp lời khai của nhân chứng khác.
Chủ tọa phiên tòa tiếp tục đọc các lời khai của nhân chứng Hoàng Xuân Vương (sinh năm 1983, ở thị trấn Tô Hạp). Trước cơ quan điều tra, nhân chứng Vương khai về việc giao bị cáo Nguyễn Thành Trung bán cục trầm kỳ nhóm Trần Văn Khánh đào được, việc nhân chứng Lê Anh Luân đưa một cục trầm kỳ cho bị cáo Trung trước mặt nhân chứng Vương. Nhưng tại phiên tòa sơ thẩm (lần 1), nhân chứng Vương lại khai rằng bị cáo Nguyễn Thành Trung hoàn toàn không liên quan gì tới việc mang bán hai cục trầm kỳ và chia tiền. Đến khi án sơ thẩm (lần 1) bị hủy để điều tra lại, nhân chứng Vương lại tự đến CQĐT để khai lại giống lời khai trước đó với cơ quan điều tra.
Theo nhân chứng Vương, tại phiên tòa sơ thẩm (lần 1) anh ta khai không đúng vì anh ta thân quen bị cáo Trung, khai để bị cáo Trung thoát tội. Sau khi nghe đọc lời khai của nhân chứng Vương, bị cáo Nguyễn Thành Trung khai rằng, lời khai của Vương tiền hậu bất nhất. “Trong bản án sơ thẩm (lần 1) có đề nghị xem xét khởi tố anh Vương, tôi nghĩ đó là áp lực khiến Vương phải khai lại”. Bị cáo Nguyễn Thành Trung nói.
Kiểm sát viên Nguyễn Nam Hải hỏi, tại sao gần đến phiên tòa sơ thẩm (lần 1), tức là 1 năm rưỡi sau khi vụ án được khởi tố, bị cáo mới khai về chứng cứ ngoại phạm? Bị cáo Nguyễn Thành Trung khai, do tin rằng sẽ sớm được làm rõ là vô tội nên thấy không cần khai về việc ngoại phạm. Đến khi có kết luận điều tra, bị đề nghị truy tố, bị cáo mới có đơn xin được phúc cung, hy vọng khi phúc cung sẽ trình bày. Nhưng đề nghị của bị cáo về phúc cung không được đáp ứng.