Trong thực tế, các ông bố có thể sống lâu hơn những quý ông không có con gần hai năm, trong khi các bà mẹ tăng tuổi thọ thêm 18 tháng.
Các nhà khoa học cho rằng tác động trên không liên quan tới sinh học, mà là kết quả của sự chăm sóc yêu thương.
Nhìn chung, những người có cuộc sống gia đình khăng khít thường được người thân động viên đến gặp bác sĩ, giữ trạng thái tích cực và biết tự chăm sóc bản thân.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng sự cô độc hay mất đi bạn đời có thể đẩy nhanh đến cái chết, nhưng đây là nghiên cứu lớn đầu tiên cho thấy rằng trẻ em có tác dụng tích cực thế nào trong cuộc sống.
TS. Karin Modig, thuộc Đơn vị Dịch tễ, Viện Y học môi trường, Viện Karolinska, Stockholm, Thụy Điển, nơi nghiên cứu này được thực hiện, cho biết: "Việc có con có liên quan tới sự gia tăng tuổi thọ, đặc biệt là khi về già. Sự chăm sóc từ con cái có vai trò quan trọng đối với sức khỏe và tuổi thọ của cha mẹ. Ở tuổi già, sự căng thẳng của bậc làm cha mẹ có thể sẽ giảm đi và thay vào đó, cha mẹ có thể được hưởng lợi từ sự chăm sóc của con cái. Ngoài ra, các ông bố, bà mẹ nhìn chung có những hành vi lành mạnh hơn so với những người không có con”.
Để tìm hiểu xem liệu việc có con có thể giúp tăng tuổi thọ, các nhà nghiên cứu đã xét các hồ sơ của gần 1,5 triệu người sinh ra vào đầu năm 1911, chú ý đến thời điểm họ qua đời và liệu họ có con hay không.
Nghiên cứu mới này cho thấy các bà mẹ sống được trung bình 84,6 tuổi, cao hơn so với tuổi thọ 83,1 ở những phụ nữ không có con. Sự khác biệt thậm chí còn nổi bật hơn ở các ông bố với tuổi thọ trung bình là 80,2 tuổi so với con số 78,4 tuổi ở những đàn ông không có con. Khoảng cách trên cũng tăng theo tuổi tác, và là lớn hơn đối với nam giới.
Những phát hiện này mâu thuẫn với các nghiên cứu trước đây vốn cho rằng việc có con rút ngắn tuổi thọ do sự chuyển hướng các nguồn lực từ duy trì thể trạng sang sinh sản. Ở các cộng đồng người nghèo, việc có bốn người con trở lên đã được chứng minh là sẽ rút ngắn tuổi thọ đi 3,5 năm.
Ở tuổi 60, sự chênh lệch trong tỉ lệ tử vong hàng năm là 0,06% ở nam giới và 0,16% ở nữ giới. Ở tuổi 90, sự chênh lệch này đã tăng lên đến 1,47% ở nam và 1,10% ở nữ.
Mối liên hệ thậm chí còn rõ hơn ở những người đàn ông đơn thân, khi mà tỉ lệ tử vong tăng gấp đôi với những người không có con.
“Thụy Điển và các nước Bắc Âu khác có xu hướng gia tăng tỉ lệ không có con trên mọi đoàn hệ sinh (birth cohort - những người được sinh ra cùng một năm hoặc cùng một thời kỳ)”.