Thanh Thảo & con ngựa thơ

Tranh của: Nguyễn Xuân Hoàng
Tranh của: Nguyễn Xuân Hoàng
TP - Thanh Thảo chưa bao giờ nghiêm trọng bất cứ điều gì, nhưng không điều gì qua khỏi mắt ông, kể cả niềm vui lẫn nỗi buồn, kể cả tật xấu tốt hay những vân vi của bạn bè cho đến cả những thành tựu, những khám phá thành công của chính ông.

Trong cuộc sống thường ngày, những điều nghiêm trọng bao giờ cũng được ông “chuyển thể” thành nhảm nhí, thành khôi hài, thậm chí ông giễu cợt tất cả. Ông thân nhất với nhà thơ Ngô Thế Oanh và nhà văn Nguyễn Trung Đức. 

Mỗi lần ông ra Hà Nội, nhà Trung Đức trở thành trung tâm tụ tập bạn bè mà có lần tôi nói, nhà anh Đức trở thành cái “rốn bão” bạn bè của hai người. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi lần đầu tiếp xúc với Thanh Thảo, lần đầu thấy cảnh bạn bè la liệt, đồ ăn thức uống la liệt, những lời đao to búa lớn la liệt, sách vở và hoa la liệt, la liệt niềm vui và la liệt niềm khổ ải cho chị Thanh, vợ nhà văn Nguyễn Trung Đức, “bà khổ chủ” nhưng cũng là “bà chủ vinh dự” bởi chị Thanh lúc nào cũng vui tươi cùng đám bạn văn ba hoa khoác lác nhưng sâu nặng nghĩa tình của chồng. 

Ở đời có luật bù trừ thật, tôi vẫn thường nghĩ. Thanh Thảo thân với Ngô Thế Oanh, một ông Oanh cận đến mòn hai con mắt, tính tình thì nhu mì từ hạnh, lười nhác, ưa tĩnh, ít di chuyển, quanh năm suốt tháng chúi mũi vào ngẫm ngợi âm thầm với sách vở với thi ca, và chăm chỉ cần mẫn với học thuật, với chữ nghĩa. 

Còn một ông hiếu động du canh du cư, chân thì cụt mà đầu thì bay nhảy, không chịu ngồi yên, không chịu dừng lại, nay đây mai đó, đi đến đâu ở đâu cũng ồn ã “một đống” bạn bè. Lại nữa, cái ông nhà văn chuyên dịch thuật những kiệt tác Mỹ La tinh Nguyễn Trung Đức thì quanh năm suốt tháng cũng chỉ biết chúi mũi vào các con chữ li ti, đánh đu với từ điển và những quan niệm mới nhất của văn học thế giới, những chuyển biến chính trị của đất nước và thời đại. Lộ trình đi về hàng ngày của ông chỉ từ nhà đến Viện Văn học và từ Viện Văn học về nhà.

Thanh Thảo và Nguyễn Trung Đức thân nhau, thân đến mức chỉ cần bạn chê thơ hoặc chê một nét gì đó của Thanh Thảo, lập tức bạn trở thành “chấy rận” trong mắt Trung Đức ngay! Kể như thế cũng khiếp thật! Và kể như thế cũng đáng yêu thật. 

Trong khi đó Thanh Thảo, cái anh nhà thơ lúc nào cũng tếu táo đùa giỡn, coi trời bằng vung, bán giời không văn tự, gọi Rùa bằng Cụ, gọi Cóc bằng Ông, gọi Trâu bằng Ngài, thích trêu chọc, giễu cợt, phiền nhiễu, quấy quả bạn bè, nhất là những bạn bè thân làm quan chức.

Ông có cảm hứng khi đem cái nghiêm trọng ra vung tí mẹt giữa chợ giời, đem cái trọng vọng ở chỗ này ra chỗ kia làm trò giải trí, nhưng bạn cũng chớ đùa, bạn hãy chê Trung Đức một tí xíu trước mặt Thanh Thảo thử coi! Tôi hình dung ra gương mặt vốn rất sáng của ông tối sầm lại, goằm xuống ngay!

Thanh Thảo thua kém các bạn đồng nghiệp ở cái khoản đọc thơ liên miên hết bài này sang bài khác trong tiệc rượu, bàn thơ. Ông không có năng khiếu phô trương đọc thơ, nói chuyện thơ như một vài nhà thơ “thầy cúng” chuyên nghiệp. Nhưng Thanh Thảo lại rất có khiếu “gầy những cuộc vui” bởi chính ông là người rất ham vui.

Trong tất cả những câu chuyện giữa chiếu thơ bầu rượu quy tụ bạn bè, dù trong Nam hay ngoài Bắc, ở đâu ông cũng là tâm điểm gây cười. Lối sống thiên về cảm tính lại nhạy bén trước những biến thiên của đời sống xã hội và cả của con người, dù nhiều năm sống ở tỉnh lẻ, ở nơi khuất nẻo, trái đường, nhưng ông đâu có nhuốm mùi tỉnh lẻ ngu ngơ trước những thông tin mới nhất của thời cuộc. 

Đặc tính nhạy cảm trời cho và chịu chơi, chịu sống với bè bạn hết mình khiến ông đến đâu cũng được bạn bè ngưỡng mộ và chiều chuộng. Thơ ông đằm dần theo thời gian, nhưng lại thỉnh thoảng làm ta giật mình vì những bứt phá. 

Từ “Một người lính nói về thế hệ mình” đến “Thử nói về hạnh phúc” như tuyên ngôn của cả thế hệ trong hai thời điểm khác nhau của cuộc sống. Từ “Trẻ em ở Sơn Mỹ” trữ tình và bi thương đến “Hà Nội nhìn từ phía tôi” mang tâm trạng của người thấy Hà Nội không còn là Hà Nội thanh lịch mà giờ đây đó trở nên đầy trắc trở. Rồi “Đêm trên cát” xuất thần ngẫu cảm... 

Thanh Thảo & con ngựa thơ ảnh 1

Thanh Thảo là người ham bạn, ham thơ, nhưng bề ngoài ít ai thấy ông biểu hiện tình cảm với cái sự “ham” ấy của mình. Thậm chí không mấy khi ông thuộc hết những bài thơ mới làm”. 

Trung Trung Đỉnh

Thanh Thảo là một nhà thơ không bao giờ chịu ngồi yên “trên lưng con ngựa thơ bất kham” của mình. Ông luôn luôn tự làm mới mình bằng chính cuộc sống của ông giữa người dân và những chuyến đi xa về gần cùng bầu bạn và thơ. Trong lao động nghệ thuật của thi sĩ, không phải lúc nào cũng bình lặng, cũng xuôi chèo mát mái. Nhưng chuyện ấy chưa phải là đáng sợ, cái đáng sợ nhất, ấy là sự lặp lại chính mình. 

Đúng thế, nếu không muốn lặp lại ắt phải biết mình đang đứng ở đâu và muốn vượt qua “nó” anh ta cũng phải thế nào! Đối với Thanh Thảo, và có lẽ không chỉ riêng Thanh Thảo, đó là tâm trạng chung của những người lao động chân chính mỗi khi hoàn tất một công việc và đến với một công việc mới, đó là sự bị hẫng hụt. 

Thanh Thảo gọi tâm trạng của ông hồi viết xong “Khối vuông ru-bích” là sự rỗng cảm giác. Nó đã đẩy ông đến chỗ tưởng như chẳng còn gì để làm nữa. Ông trở thành một con người khác. Bên ngoài ông như kẻ bán trời chỉ còn cái xác, cái vỏ, kẻ “lưu lạc” trên quê hương mình. 

Những cuộc tụ tập bạn bè, nhậu nhẹt vỡ trời, đọc thơ thâu đêm, tán thưởng nhau thâu đêm triền miên hàng năm trời không bù đắp được khoảng trống bên trong tính cách ngang tàng của kẻ “không còn gì” ấy. Tôi cứ bị ám ảnh mãi bài thơ “KaLa” của ông sau một đêm chúng tôi uống ở cổ viện Chàm Đà Nẵng:

...ôi kala! kala!

ta ngước nhìn vực thẳm

dưới chân mây lộn nhào

ta âm thầm lau bụi

tháng năm dường chiêm bao

ôi kala! kala!

ta là kẻ bán trời

mua niềm vui nhỏ giọt...

Kala là một loại tượng mặt nạ cổ Chàm. Đó không phải là một hiện vật quý hiếm, tuy nhiên cực kỳ biểu cảm và đẹp đến mê hồn. Thực tình khi ấy chúng tôi (tôi và nhà văn Thái Bá Lợi, nhà thơ Ngô Thế Oanh) bị tính cách mạnh của Thanh Thảo cuốn theo không chỉ trong đời sống hàng ngày mà cả trong quan niệm sáng tác. 

Thanh Thảo mê thơ văn và cuộc đời Cao Bá Quát cũng như mê tâm hồn cao khiết từng trải nhiều tâm trạng trước thời cuộc luôn luôn bất trắc với một tính cách phóng túng ngang tàng của nhà thơ vĩ đại này. Trong một cuộc “chén chú chén anh” của chúng tôi, Thanh Thảo hơn một lần nâng li với vầng trăng trên sân thượng, sau khi ông gào lên: “Tắt mẹ nó điện đi!”. 

Điện tắt. Lập tức chính chúng tôi cũng bị ngập chìm vào không gian mê hoặc của thơ Cao Bá Quát, của phong cách Cao Bá Quát. Thanh Thảo là người có sức cuốn hút bạn bè vào mê lộ tình cảm của mình. Ông không phải là kẻ buông tuồng, sống bất cần đời, nhưng ông sống hết mình với bạn bè trong mọi tình huống, trong mọi hoàn cảnh. 

Chưa bao giờ tôi thấy Thanh Thảo bi quan trước một hoàn cảnh nào, kể cả khi ông lâm nạn gẫy chân. Kể cả sau khi sáng tác xong “Khối vuông ru-bích” tưởng như chẳng còn gì để viết nữa. Bản tính thông minh khôi hài hóm hỉnh của ông đã dìu ông ra khỏi trạng thái rỗng của người vừa viết xong một tác phẩm tâm huyết. Nó dìu ông, hay nói đúng hơn, nó đã bốc ông ra khỏi chính sự ngộ nhận tài năng để đem ông trở lại với khả năng lao động tìm tòi đích thực đầy khốc liệt. 

Có lần cùng nhà thơ đàn anh Tế Hanh về quê, trong một cuộc đàm đạo, hai ông nói với nhau về cuộc đời và thơ văn Cao Bá Quát. Thanh Thảo buột thốt: Em phải viết! Và Tế Hanh cũng vụng về nói, như cái cách vụng về chân chất của ông: Đúng! Em phải viết đi!... Đó chỉ là một câu chuyện ngẫu hứng, bỗng dưng về Cao Bá Quát, nhưng chính đó cũng là khoảnh khắc chín muồi cho bài thơ dài “Đêm trên cát” sau đó của ông. 

Ông là nhà thơ không khoan nhượng với cái cũ, dù đôi khi có những cái mới, mới chỉ là manh nha, thậm chí mới chỉ là tín hiệu mỏng manh. Ông là người có năng lực tự phù phép lôi cuốn chính bản thân mình ra khỏi những cơn mê để rồi tái tạo nó, dựng nó lên thành điểm tựa cho những sáng tác của mình. Tài năng, thông minh không phải là tất cả. Tất cả thuộc về tấm lòng của người lao động. Mọi sự phát sáng đều bắt nguồn từ đó, tuy nhiên không có tài năng thì làm sao phát sáng!

Thơ không ồn ào như tiếng kèn xung trận

Thanh Thảo, một trong những nhà thơ xuất sắc của thời chống Mỹ với những bài thơ, những trường ca, những sáng tác mới đầy khám phá trong nghệ thuật mà sâu nặng nghĩa tình.

Thơ ông xuất hiện hơi muộn so với các nhà thơ cùng thế hệ (khoảng những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước), nhưng bù lại, nó tạo nên một luồng không khí mới, nói như nhà thơ Chế Lan Viên, đây là một vẻ đẹp mới mẻ của thi ca thời chống Mỹ.

Dễ có tới ba chục năm có lẻ, kể từ khi cái chùm thơ gần như là đầu tiên ấy được in trên tạp chí Tác Phẩm Mới, lại được nhà thơ Chế Lan Viên nồng nhiệt viết bài giới thiệu, đó là một niềm vinh dự tự hào không phải người làm thơ nào thời ấy cũng có.

Đó là thời khắc may mắn đầy kiêu hãnh, coi như Thanh Thảo bắt đầu được khoác áo hoàng bào hùng dũng nhảy lên lưng con ngựa thơ của mình, xông ra trận.

Cái con ngựa thơ ông cưỡi thật khác với các con ngựa thơ mà bạn bè cùng lứa với ông cưỡi quá. Nó vừa có cái vẻ linh hoạt từng trải của chiến mã, lại vừa có cái vẻ khoan thai, ung dung tự tin của những chú ngựa cung đình.

Ngay cả lúc ông buông cương thả nổi thì nó vẫn cứ toát lên cái vẻ bình dị nhưng sắc sảo lạ lùng, khiến cho một vài chiến mã bạn bè bị kích thích đến choáng ngợp muốn vượt lên. Bằng chính cốt cách của mình, con ngựa thơ của Thanh Thảo chạy trên cánh đồng thơ ngào ngạt ấy với những đường bay hoa mỹ.

Đa số các bạn chiến mã thơ cùng trang lứa thời ấy háo hức muốn bứt phá vượt lên. Nhưng để vượt lên qua những câu thơ “Xin mẹ cứ nhai trầu/ cho buổi chiều yên tĩnh” thì cũng thật khó khăn lắm thay. Đó là một câu thơ càng đọc, càng ngẫm càng thấy hay, nó thật là thi sĩ, thật là hiện đại mà lại thấm đẫm vẻ đẹp Việt Nam.

Ấy là thời “Dấu chân qua trảng cỏ” trong sáng, hồn nhiên, khiêm nhường và giản dị. Tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” chủ yếu viết về vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Nó không ồn ào như những tiếng kèn xung trận của cả thế hệ đang náo nức xung trận. Nó cũng không bay bướm “lãng mạn hoá” kiểu như thể thơ trữ tình cổ động “Không có kính không phải vì xe không có kính” rất tài hoa, kích thích trực diện vào khí thế của người lính thời chiến như thơ Phạm Tiến Duật.

Thơ Thanh Thảo thấm đượm vẻ đẹp bên trong tâm hồn, vẻ đẹp vừa cường tráng lãng mạn lại vừa có ý tưởng sâu xa…

MỚI - NÓNG