Tuy nhiên, từ thực tế triển khai cho thấy, chính sách này đang gặp nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách, quá trình tổ chức thực hiện. Nếu không được kịp thời tháo gỡ, e rằng, mục tiêu chính hướng đến của chính sách này sẽ khó đạt được như kỳ vọng.
Gian nan… tàu vỏ sắt
Theo số liệu mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 27/28 tỉnh đã triển khai chương trình tín dụng phục vụ đóng mới, nâng cấp tàu cá theo Nghị định 67. Các NHTM đã ký hợp đồng tín dụng để đóng mới, nâng cấp 1.005 tàu (880 tàu đóng mới và 125 tàu nâng cấp), số tiền cam kết cho vay là 9.931 tỷ đồng, đã giải ngân cho vay 9.012 tỷ đồng. Trong đó, riêng Agribank đã phê duyệt hồ sơ và ký hợp đồng tín dụng đóng mới nâng cấp 580 tàu. Tổng số vốn cam kết cho vay là 4.855 tỷ, dư nợ hiện tại 4.110 tỷ đồng.
Với mức dư nợ cho vay chiếm trên 50% tổng dư nợ các NHTM đã cho vay đối với chương trình, sau 3 năm triển khai thực hiện, Agribank đang đối mặt với hàng loạt khó khăn vướng mắc, xuất phát từ những bất cập của chính sách.
Qua tìm hiểu thực tế triển khai Nghị định 67 tại Thanh Hóa, Nghệ An (2 tỉnh có số tàu cá lớn nhất) cho thấy, tàu vỏ gỗ đưa vào sử dụng hoạt động ổn định, hiệu quả, ít bị hư hỏng, mỗi chuyến đi biển từ 10 - 20 ngày, thu nhập sau khi loại trừ chi phí đều có lãi; các chủ tàu đã trả nợ phân kỳ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Còn đối với tàu vỏ sắt, mặc dù được đánh giá là đáp ứng các tiêu chí tàu cá hiện đại về năng lực đánh bắt, tiết kiệm về nguồn nhân lực (chỉ phải sử dụng lực lượng lao động bằng ½ nhân lực trên tàu vỏ gỗ) nhưng qua thực tế các chuyến đi biển của ngư dân cho thấy tàu vỏ sắt đi vào hoạt động đã nảy sinh nhiều vấn đề. Các tàu thời gian đầu thường xuyên bị hư hỏng máy phát điện, cẩu, tời, hầm bảo quản, bóng cao áp... buộc phải sửa chữa, trong khi đó sự phối hợp giữa chủ tàu với các công ty đóng tàu chưa tốt, chưa đồng thuận về trách nhiệm các bên đối với các sự cố xảy ra nên thời gian khắc phục các sự cố còn kéo dài, phát sinh chi phí, gián đoạn thời gian đi biển… dẫn đến hiệu suất khai thác không cao.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm đánh bắt, sử dụng các trang thiết bị trên tàu của chủ tàu và các thuyền viên còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành các trang thiết bị hàng hải hiện đại. Các tàu vỏ sắt khai thác chưa hiệu quả dẫn đến khả năng trả nợ khó khăn và đến nay đã có 02 chủ tàu vỏ sắt vay vốn Agribank Thanh Hóa không trả được nợ và lãi theo phân kỳ. Mặc dù đã được Ngân hàng tích cực hỗ trợ, tuy nhiên trước những vấn đề nảy sinh nêu trên, cả ngư dân lẫn TCTD không mặn mà gì đối với tàu vỏ sắt. Điều này cho thấy, mục tiêu chính của Nghị định 67 hướng đến hình thành những đội tàu công suất lớn hiện đại của nước ta khó mà đạt được như kỳ vọng, nếu không sớm có những điều chỉnh về chính sách.
Rủi ro trong kiểm soát dòng tiền
Trao đổi với chúng tôi, các cán bộ tín dụng trực tiếp triển khai cho vay “tàu 67” tại Agribank Nghệ An nhắc lại bài học về cho vay đánh bắt xa bờ trước đây. Thời điểm năm 1993, Ngân hàng cho vay đánh bắt xa bờ 56 tỷ đồng, sau 6-7 năm thực hiện chỉ thu được có 07 tỷ đồng. Từ bài học nhãn tiền này, đến nay, triển khai cho vay “tàu 67” khiến các cán bộ ngân hàng không ít tâm tư, bởi “vòng đời” của “tàu 67” dài, bản thân con tàu chính là tài sản đảm bảo tiền vay tại ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng đang cho vay “tàu 67” thực chất là nguồn vốn do ngân hàng huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để cho vay lại.
Với đặc thù của nghề biển hoạt động trên ngư trường rộng lớn, đánh bắt khắp nơi, nên có lúc các chủ tàu thường bán hải sản nơi tàu ở gần tại nhiều cảng ở các địa phương khác nhau và neo đậu tàu tại các cảng lớn ở các địa phương, điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát tài sản đảm bảo tiền vay và nguồn thu nhập của ngư dân để trả nợ ngân hàng, nhất là trong những trường hợp chủ tàu không hợp tác tích cực với ngân hàng, chính quyền địa phương trong việc cung cấp thông tin hoạt động của tàu cá, còn các chuyến đi biển thì lại chưa có xác nhận của các trạm, đồn biên phòng… Trong khi Ngân hàng thì không thể áp dụng được phương thức thanh toán không dùng tiền mặt vì thiết bị liên lạc trên biển của ngư dân chỉ có sóng 2G. Trên thực tế sau 03 năm triển khai đã xuất hiện tình trạng “lỗ thật thì ít, lỗ giả thì nhiều”…
Bên cạnh đó, ngành đánh bắt hải sản trên biển phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, rủi ro cao, hoặc nếu ngư dân đánh bắt cá vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của nước khác, hoặc thậm chí sử dụng phương tiện tham gia hoạt động buôn lậu trên biển … thì lúc đó tài sản đảm bảo tiền vay có nguy cơ bị tổn thất.
Nhận thức của một số ngư dân xem chương trình vay vốn đóng tàu theo Nghị định 67 là chính sách tài trợ không hoàn lại của Chính phủ, do vậy không chú trọng tính toán hiệu quả của phương án, tìm mọi cách vay vốn, hoặc tâm lý “làm được thì làm, không làm được thì giao tàu lại cho ngân hàng. Ngân hàng nhận tàu, coi như ngư dân không còn nợ” rất nguy hiểm đến an toàn vốn.
Ngay việc một số UBND các tỉnh ban hành quyết định phê duyệt danh sách chủ tàu đủ điều kiện vay vốn đóng mới, nâng cấp tàu khai thác hải sản và tàu dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác hải sản xa bờ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP cũng gây nên áp lực đối với TCTD, dẫn đến việc ngư dân hiểu chưa đúng, cho rằng đã có tên trong danh sách phê duyệt của UBND tỉnh là đủ điều kiện và chắc chắn Ngân hàng sẽ phải giải quyết cho vay vốn.
Những khó khăn, vướng mắc trên đặt các TCTD trong tình trạng “ngồi trên đống lửa”, đồng thời là “rào cản” lớn đối với các ngân hàng trong cho vay “tàu 67” bởi nguyên tắc đầu tiên trong hoạt động cho vay là phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn. Đặc thù của “tàu 67” hình thành từ vốn vay là TSĐB duy nhất đối với ngân hàng, tối đa lên tới 95% giá trị con tàu là tiền của Ngân hàng đầu tư. Trong khi đó quản lý giám sát dòng tiền đối với ngân hàng là việc cực kỳ khó khăn, nếu không nói là hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức trả nợ của người vay.
Và hàng loạt khó khăn, vướng mắc liên quan khác…
Quá trình triển khai Nghị định 67 trên thực tế còn gặp hàng loạt khó khăn, vướng mắc khác. Có đến trên 90% khách hàng vay vốn theo NĐ67 là hộ gia đình và cá nhân do trình độ học vấn thấp nên hầu hết người vay không có khả năng nghiên cứu hồ sơ kỹ thuật, chưa có kinh nghiệm trong việc lập hồ sơ vay vốn, lập phương án kinh doanh hoặc chứng minh được khả năng tài chính, nguồn nhân lực chưa đạt trình độ quản lý và vận hành trang thiết bị hiện đại khi chuyển đổi từ phương thức đánh bắt truyền thống sang hiện đại.
Do lần đầu triển khai đóng tàu vỏ thép nên nhiều ngư dân còn lúng túng, gặp khó khăn trong việc lựa chọn cơ sở đóng tàu, tư vấn thiết kế và giám sát thi công. Ở nhiều địa phương thiếu các cơ sở đóng tàu hoặc các cơ sở đóng tàu chưa đủ điều kiện để đóng mới và cải hoán tàu cá cỡ lớn, cơ sở hạ tầng (cảng cá, luồng lạch…) không đáp ứng việc ra vào, neo đậu của “tàu 67” (công suất trên 800 CV), không vào được bến cảng của địa phương phải neo đậu ở bến cảng địa phương khác, phát sinh thêm chi phí ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động khai thác của tàu cá.
Mặt khác, chính sách hỗ trợ kinh phí mua bảo hiểm, hoạt động đăng kiểm đối với “tàu 67” cũng còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho ngư dân và rủi ro cho các TCTD khi cho vay. Cụ thể, theo quy định để tàu được ra khơi hoạt động bắt buộc các chủ tàu phải bảo hiểm cho con tàu và các thuyền viên, tuy nhiên một số chủ tàu phải tự bỏ tiền ra mua bảo hiểm trước nhưng đến nay vẫn chưa được nhà nước hoàn trả lại số tiền được hỗ trợ mà đã bỏ ra. Công tác đăng kiểm tàu cá cũng cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan đăng kiểm với kết quả đăng kiểm từng tàu cá để nâng cao chất lượng tàu cá.
Mục tiêu chính – bao giờ mới đạt được?
Đây là câu hỏi lớn đặt ra đối với các Bộ, Ngành, địa phương và các bên liên quan trong quá trình triển khai Nghị định 67. Rõ ràng, với những vướng mắc nêu trên nếu không được kịp thời tháo gỡ thì mục tiêu chính của Nghị định 67 đó là hình thành nên các đội tàu vỏ sắt công suất lớn sẽ khó trở thành hiện thực.
Tại Hội thảo “Sửa đổi Nghị định 67- Những vấn đề cần đặt ra” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mới đây tại TP Đà Nẵng với sự tham dự của nhiều đại diện Bộ, Ngành, địa phương, TCTD, ngư dân liên quan quá trình triển khai, nhiều ý kiến cho rằng, chính sách hỗ trợ đóng mới, nâng cấp tàu cá nên chuyển từ chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng đóng mới tàu cá sang chính sách hỗ trợ đóng mới tàu cá theo hình thức hỗ trợ một lần sau đầu tư theo Quyết định 47/2016/QĐ-TTg. Chính phủ cần sớm xem xét ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung NĐ 67 quy định thêm một số vấn đề như: Hỗ trợ chi phí giám sát đóng tàu để chủ tàu thuê tư vấn đủ năng lực, kinh nghiệm giám sát quá trình đóng tàu đảm bảo chất lượng; hỗ trợ về đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng hạng 4 trở lên cho tàu cá đóng mới theo NĐ 67; Quy định cơ chế xử lý đối với các trường hợp bất khả kháng. Nên xem xét cho nhiều DN bảo hiểm tham gia chính sách bảo hiểm tàu cá theo NĐ 67, để ngư dân có nhiều lựa chọn cho DN tham gia bảo hiểm...
Với tư cách là NHTM hiện chiếm trên 50% tổng dư nợ cho vay đầu tư phục vụ Chính sách phát triển Thủy sản theo Nghị định 67, từ thực tế triển khai cho vay “tàu 67” với những vướng mắc gặp phải, Lãnh đạo Agribank bày tỏ sự lo ngại, đồng thời mong muốn nhận được sự chia sẻ của các địa phương, đồng thời kiến nghị các cơ quan chức năng vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa để có được sự phối hợp chặt chẽ, đồng thuận trong chính sách, đặc biệt là đảm bảo sự minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện.
Để chính sách đạt được mục tiêu như kỳ vọng, Agribank đề xuất, kiến nghị:
Một là, áp dụng chính sách ưu đãi có chọn lọc, ưu tiên mô hình tổ chức sản xuất có tính liên kết cao; áp dụng chính sách hỗ trợ một lần sau đầu tư. Cụ thể, chủ tàu là phải thành viên của tổ đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá, doanh nghiệp khai thác thủy sản; tàu phải được lắp đặt máy thông tin liên lạc tầm xa có tích hợp thiết bị vệ tinh (GPS) kết nối được trạm bờ. Không khuyến khích đầu tư đóng mới, nâng cấp tàu cá theo mô hình tổ chức sản xuất cá nhân nhỏ lẻ do chất lượng nguồn nhân lực không đảm bảo, năng lực quản lý, vận hành khai thác, năng lực tài chính có nhiều hạn chế, không tạo được tính gắn kết giữa các tàu đánh bắt ở ngoài khơi vì mục tiêu phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Hai là, gắn chặt trách nhiệm của ngư dân với con tầu và khoản vay bằng tài đảm đảm bảo là bìa đất, nhà ở...đồng thời duy trì chính sách bảo hiểm đối với con tàu tương ứng với thời gian vay vốn theo quy định tại NĐ67 (11 năm đối với tàu vỏ gỗ hoặc tàu được nâng cấp; 16 năm đối với tàu vỏ thép hoặc vỏ vật liệu mới được đóng mới).
Ba là, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, chỉ đạo triển khai tích cực, đồng bộ trong đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ thuật vận hành thiết bị; phối hợp giữa Hiệp hội nghề cá, các mô hình, tổ đội đánh bắt thủy sản, dịch vụ hầu cần và các cơ quan chức năng để cùng các ngân hàng thương mại giám sát, quản lý việc tiêu thụ sản phẩm, quản lý dòng tiền của ngư dân để việc trả nợ được minh bạch và hiệu quả. Đồng thời cần có chính sách đủ mạnh để khuyến khích và thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư khai thác, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hải sản nhằm bảo đảm ổn định đầu ra và nâng cao giá trị sản phẩm.
Ngoài ra, đối với những chủ tàu do nguyên nhân khách quan trong quá trình thực hiện dự án không còn đủ năng lực thực hiện dự án, đề nghị Chính phủ, UBND các cấp hướng dẫn/cho phép chủ tàu được chuyển nhượng lại tàu và bên nhận chuyển nhượng được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo Nghị định 67.