Theo chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện, bờ biển ĐBSCL được chia làm 2 dạng chính, đoạn 250 km vùng cửa sông Cửu Long từ Tiền Giang đến Sóc Trăng chủ yếu là cát và phần còn lại từ Bạc Liêu xuống Cà Mau chủ yếu là bùn. Về nguyên tắc, khi thiếu bùn thì sạt lở vùng bờ biển bùn. Ở phía sông, sạt lở diễn ra ở vài trăm điểm.
Ông có thể lý giải nguyên nhân sạt lở trên diện rộng hiện nay ở ĐBSCL?
Có những nguyên nhân tại chỗ và có những nguyên nhân trên toàn hệ thống lưu vực sông. Nguyên nhân tại chỗ có thể dễ dàng nhìn thấy là do nhà cửa xây dựng sát bờ sông, tàu thuyền gây sóng, thay đổi dòng chảy, hố sâu dịch chuyển vị trí ăn vào bờ… Những nguyên nhân tại chỗ lại chính là biểu hiện của sự mất cân bằng trên hệ thống gây ra.
Nguyên nhân chính của vấn đề sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL là sự thiếu hụt phù sa mịn và thiếu hụt cát do các đập thủy điện của các nước trên thượng nguồn sông Mekong đã chặn phù sa và do khai thác cát trong lòng sông đoạn tại ĐBSCL.
Gần đây, có ý kiến cho rằng sạt lở ở Vàm Nao là do xuất hiện hố sâu ở đoạn sông này và có đề xuất giải pháp lấp hố sâu, ý kiến của ông thế nào?
Các hố sâu là một phần tự nhiên của hệ thống sông Mekong và có từ lâu chứ không phải mới xuất hiện. Vào mùa kiệt, các hố sâu này là nơi hơn 200 loài cá Mekong, đặc biệt là các loài cá lớn như cá Tra Dầu và cá Hô trú ngụ, tìm mồi và tránh nóng.
Theo khảo sát năm 2008 của MRC (Ủy hội sông Mekong), trên sông Mekong có 500 hố sâu. Riêng tại ĐBSCL có 23 hố, sâu từ 13 đến 44 mét, rộng từ 4 đến 95 ha. Tại khu vực Vàm Nao (An Giang) và khu vực chợ Bình Thành (Đồng Tháp) đều có những hố sâu tự nhiên xuất hiện từ lâu. Các hố sâu thường xuất hiện tại các vị trí như nơi đoạn sông cong, nước đạp vào bờ phía lõm tạo hố sâu; bên dưới nơi hợp lưu của hai dòng; nơi dòng chảy bị cù lao giữa sông tách ra làm hai và hợp lại ở bên dưới; và nơi dòng sông bị thắt nút cổ chai ở một bên hoặc hai bên.
Như vậy, hố sâu là tự nhiên và có từ lâu. Sạt lở là do có sự mất cân bằng động lực dòng chảy làm hố sâu dịch chuyển vị trí, ăn vào bờ. Các hố sâu này thay đổi theo mùa, vào đầu mùa lũ, tháng 7-8 thì cát di chuyển vào hố sâu, lấp khoảng 20-30% chiều sâu hố, đến tháng 9-10 trở đi thì dòng sông tự nạo vét lấy lượng này ra khỏi hố và vận chuyển tiếp đi xuống bên dưới. Nếu lượng cát từ trên xuống không còn nhiều thì sẽ mất cân bằng và hố sâu bị mở rộng và dịch chuyển. Nếu một bên bờ nào đó bờ sông bị lấn nhân tạo thì hố sâu cũng sẽ dịch chuyển sang bờ bên kia.
Vì vậy, việc lấp các hố sâu này là không thể và cũng không nên. Không thể là vì thể tích rất lớn và do quá trình tự nhiên tạo nên, khó có gì chống lại được. Không nên là vì các hố sâu này có vai trò cân bằng động lực, lấp chỗ này thì dòng sông sẽ tìm chỗ khác để tự cân bằng. Hơn nữa, các hố sâu này có vai trò sinh thái quan trọng của hệ thống sông.
Việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn liên quan gì đến tình trạng sạt lở cuối nguồn Mekong, thưa ông?
Số liệu của MRC cho biết, so sánh giữa 1992 và 2014, sau khi Trung Quốc xây dựng 7 đập ở thượng nguồn, lượng phù sa mịn sông Mekong đã giảm 50% từ 160 triệu tấn/năm xuống còn 85 triệu tấn/năm. Con số này chưa tính đến cát, sỏi di chuyển ở đáy sông. Dự báo sau này, khi có thêm 11 đập dòng chính ở Lào và Campuchia, phù sa mịn sẽ giảm 50% một lần nữa, tức còn 1/4 lượng cũ. Sự thiếu hụt phù sa mịn sẽ gây gia tăng sạt lở bờ sông và sạt lở bờ biển ở đoạn bờ biển bùn từ Bạc Liêu xuống Cà Mau.
Cát di chuyển từ thượng nguồn về đến ĐBSCL phải mất vài chục năm, vì cát nặng di chuyển ở đáy sông nên mỗi năm chỉ đi được một đoạn trong mùa lũ. Toàn bộ lượng cát từ phía thượng nguồn hiện nay đã không đi xuống được vì 7 đập ở Trung Quốc chặn, nhưng hiện nay cát vẫn còn về là từ số cát ở đoạn trung lưu đi xuống của những năm trước và đang trong quá trình di chuyển xuống. Nhưng trong tương lai, khi có 11 đập ở hạ lưu, theo dự báo 100% lượng cát sẽ bị kẹt lại.
Tình trạng khai thác cát hiện nay trên sông Mekong đang diễn ra như thế nào, thưa ông?
Khai thác cát đang diễn ra trên sông Mekong ở Lào, Thái Lan, Campuchia và ở ĐBSCL. Số liệu của giáo sư Bravard, Đại học Lyon (Pháp) cho biết, năm 2011-2012, Lào khai thác khoảng 900.000 m3, Thái Lan 3,7 triệu, Campuchia 18,7 triệu, Việt Nam 7,8 triệu, tổng cộng 31 triệu m3. Số liệu cho thấy Campuchia khai thác nhiều nhất trong năm 2011 (60%), kế tiếp là Việt Nam 22%, Thái Lan 13%, Lào 4%. Với lượng khai thác như vậy có lẽ đã cao hơn lượng phù sa bù lại hàng năm của dòng sông, vì vậy đáy sông càng ngày càng sâu hơn.
Theo ông, đâu là giải pháp để ngăn chặn hoặc giảm thiểu tình trạng sạt lở ở ĐBSCL như hiện nay cũng như trong tương lai?
Việc trước mắt cần làm để tránh thiệt hại tài sản và tính mạng người dân là khảo sát, lập bản đồ những khu vực rủi ro cao để cảnh báo để ngăn chặn việc xây dựng nhà cửa công trình và chủ động di dời người dân và tài sản ra khỏi nơi nguy hiểm. Còn về lâu dài, cần quản lý chặt chẽ khai thác cát, kể cả khai thác trái phép và khai thác có phép. Cần chấm dứt tình trạng mỗi tỉnh mỗi cấp phép khai thác cát ở đoạn sông chảy qua tỉnh mình mà không biết đến tác động đến tỉnh khác và bờ biển. Cách làm này rất không ổn, bởi vì khai thác cát một nơi ảnh hưởng xa hàng trăm km. Các công trình lớn như các cầu Cần Thơ, Vàm Cống, Mỹ Thuận, Cao Lãnh rất có thể bị đe dọa dù các điểm khai thác cát ở rất xa.
Cần giải bài toán quy hoạch khai thác cát tổng thể trên toàn hệ thống sông để tránh sạt lở bờ sông, bờ biển với đầu bài cho trước rằng trong tương lai khi các đập thủy điện ở hạ lưu xây dựng xong sẽ không còn cát, sỏi về ĐBSCL. Hơn nữa, việc khai thác cát trên sông cần phải tính đến lượng cát cần để duy trì bờ biển. Nếu chỉ tính cho bờ sông mà quên bờ biển thì biển sẽ sạt lở khi thiếu cát.