Nhân vật nữ chính trong câu chuyện của Maya không tách đôi. Bà đã tám mươi tuổi, và bất chấp mọi sức ép xã hội, bà một mực không chịu tách đôi. Đến cuối câu chuyện, bà ta chết. Đó là một câu chuyện hay, ngoại trừ đoạn kết. Có gì đó trầm uất trong câu chuyện. Trầm uất và đoán trước được. Nhưng trong lớp đào tạo, Maya đã dành được rất nhiều lời khen ngợi về đoạn kết. Người giáo viên, được coi là một nhà văn tiếng tăm hoặc đại loại thế, cho dù Aviad chưa bao giờ nghe nói đến ông ta, nói với cô rằng có điều gì đó nhói lòng trong sự làng nhàng của đoạn kết, hay một đoạn vớ vẩn nào khác. Aviad thấy ngay những lời tán dương làm Maya hạnh phúc đến mức nào. Cô rất phấn khích khi nói với anh về điều đó. Cô dẫn lại những lời vị nhà văn kia đã nói với mình theo cách người ta viện dẫn một câu trong Kinh Thánh. Và Aviad, người thoạt đầu đã cố gắng đề xuất một cái kết khác, liền rút lại ý kiến và nói tất cả chỉ là vấn đề sở thích và anh thực sự không hiểu nhiều về chuyện đó.
Chính mẹ cô đã nảy ra ý tưởng cô nên tới một lớp đào tạo sáng tác. Bà nói cô con gái của bạn bà đã tới một lớp như thế hồi năm ngoái và rất thích nó. Aviad cũng nghĩ sẽ tốt cho Maya nếu cô ra ngoài nhiều hơn, làm gì đó cho chính mình. Anh luôn có thể đắm mình trong công việc, luôn có điều gì đó trong chuyện làm ăn cần anh để mắt tới. Nhưng cô thì chưa bao giờ ra khỏi nhà kể từ sau lần sảy thai. Lúc nào bước chân vào nhà, anh cũng thấy cô trong phòng khách, ngồi thẳng người. Không đọc, không xem tivi, thậm chí không khóc. Khi Maya do dự về lớp học, Aviad biết cách thuyết phục cô ra sao. “Cứ đi một lần, thử xem thế nào,” anh nói, “như một đứa trẻ đi dự trại trẻ ban ngày ấy.” Sau đó, anh cảm thấy mình có phần thiếu ý tứ khi dùng một đứa trẻ làm ví dụ sau những gì họ đã trải qua hai tháng trước. Nhưng Maya đã mỉm cười và nói trại trẻ ban ngày có lẽ đúng là thứ cô cần.
Câu chuyện thứ hai cô viết kể về một thế giới trong đó bạn chỉ thấy được những người bạn yêu. Nhân vật chính là một người đàn ông đã lập gia đình và yêu vợ mình. Một ngày nọ, cô vợ va thẳng vào anh ta ngoài lối vào làm cái ly đang cầm trên tay rơi xuống vỡ tan. Vài ngày sau, cô này ngồi xuống người chồng khi anh ta đang nằm ngủ trên một chiếc ghế bành. Cả hai lần, cô vợ đều thoát khỏi bằng một cái cớ: cô ta đang nghĩ tới chuyện gì đó trong đầu hay cô ta mải nhìn đi chỗ khác khi ngồi xuống. Nhưng người chồng bắt đầu nghi ngờ vợ mình không còn yêu anh ta nữa. Để kiểm tra nghi vấn của mình, anh ta quyết định làm một việc kỳ quặc là cạo đi nửa bên trái bộ ria của mình. Người chồng về nhà với nửa bộ ria trên khuôn mặt, ôm theo một bó hoa cỏ chân ngỗng. Vợ anh ta cảm ơn về bó hoa và mỉm cười. Anh ta cảm thấy người vợ phải đưa tay lần tìm trong không khí để trao cho chồng một cái hôn. Maya đặt tên câu chuyện là “Nửa bộ ria”, và kể với Aviad là khi cô đọc câu chuyện ở lớp dạy sáng tác, một số người đã khóc. Aviad mỉm cười với cô và nói, “Ái chà,” rồi hôn lên trán cô. Tối hôm đó, họ tranh cãi về một chuyện vặt vãnh ngớ ngẩn. Cô đã quên gửi lời nhắn hay chuyện gì đó đại loại, và anh đã to tiếng với cô. Anh là người đáng trách, và cuối cùng anh xin lỗi. “Anh đã có một ngày kinh khủng tại chỗ làm”, anh nói và vuốt ve chân cô, cố bù đắp lại cơn nổi nóng của mình. “Em thứ lỗi cho anh chứ?” Và cô tha thứ cho anh.
Người giáo viên dạy sáng tác đã xuất bản một tiểu thuyết cùng một tập truyện ngắn. Cả hai đều không mấy thành công, nhưng quả thực chúng có nhận được vài nhận xét tích cực. Đó là những gì cô bán hàng tại một nhà sách gần văn phòng anh làm việc cho Aviad biết. Cuốn tiểu thuyết rất dày, 624 trang. Aviad mua tập truyện ngắn. Anh để nó trên bàn làm việc của mình và cố thử đọc một chút vào những giờ nghỉ ăn trưa. Tất cả các câu chuyện trong tập sách đều diễn ra ở nước ngoài. Một kiểu lừa gạt. Mỗi câu truyện được lấy bối cảnh ở một quốc gia khác nhau. Lời giới thiệu trên bìa bốn nói tác giả là một hướng dẫn viên du lịch và đã đi nhiều nơi trên thế giới. Còn có cả một bức ảnh đen trắng nhỏ của anh ta. Trong ảnh, anh ta trưng một nụ cười tự mãn của một người cảm thấy may mắn được là chính mình. Vị tác giả đã nói với cô, Maya kể lại với Aviad, là khi lớp học kết thúc, anh ta sẽ gửi các câu chuyện cô viết tới nhà xuất bản của mình. Và tuy cô không nên quá kỳ vọng, nhưng thực tế là từ vài năm qua các nhà xuất bản đã rất vất vả trong việc tìm kiếm tài năng mới.
Câu chuyện thứ ba của cô bắt đầu thật buồn cười. Nó kể về một người phụ nữ có thai đẻ ra một con mèo. Ông chồng, nhân vật chính của câu chuyện, nghi ngờ con mèo không phải con của mình. Một con mèo đực béo ú có bộ lông vàng hoe ngủ trên nắp thùng rác có lắp bánh xe ở ngay đối diện với phòng ngủ của đôi vợ chồng và luôn dành cho ông chồng một cái nhìn trịch thượng mỗi khi anh ta xuống cầu thang đi đổ rác. Cuối cùng, một cuộc va chạm dữ dội diễn ra giữa ông chồng và con mèo. Ông chồng ném một hòn đá vào con mèo, còn nó đáp trả bằng những cú đớp và cào. Ông chồng bị thương, vợ anh ta và con mèo con cô ta đang cho bú cùng đến một phòng khám để đợi tiêm phòng uốn ván cho người chồng. Anh ta cảm thấy ê chề và đau đớn, nhưng cố không khóc. Con mèo con, cảm thấy nỗi thương tâm của ông chồng, bèn luồn ra khỏi vòng tay mẹ nó, tới dịu dàng liếm lên mặt anh ta và “meo” một tiếng an ủi.
“Anh nghe thấy không?” người vợ cảm động hỏi. “Nó nói ‘Bố ơi’ đấy”.
Đến đây, ông chồng không thể cầm được nước mắt nữa. Và khi đọc tới đoạn này, Aviad cũng đã phải cố hết sức để không khóc. Maya nói cô đã bắt đầu viết câu chuyện đó từ trước khi biết mình lại có thai. “Chẳng phải thật lạ sao”, cô hỏi, “khi bộ óc em chưa hề biết em có thai, nhưng phần tiềm thức đã biết rồi?”. Ngày thứ ba kế tiếp, khi Aviad tới đón cô sau khi lớp học kết thúc, anh đã tới sớm nửa giờ, đậu xe và đi vào tìm cô. Maya ngạc nhiên khi thấy anh xuất hiện trong lớp học, và anh nhất quyết muốn cô giới thiệu anh với nhà văn là giáo viên. Vị nhà văn sực nức mùi nước hoa ẻo lả bắt tay Aviad và nói với anh là nếu Maya đã chọn anh làm chồng, anh hẳn phải là một người rất đặc biệt.
Ba tuần sau, Aviad đăng ký tham dự một lớp dạy sáng tác nhập môn. Anh không nói gì về việc này với Maya, và để giữ kín chuyện, anh dặn thư ký là nếu có bất kỳ cuộc điện thoại nào từ nhà gọi tới, cô thư ký phải nói anh đang có một cuộc họp quan trọng và không thể bị quấy rầy. Những học viên còn lại của lớp đều là phụ nữ lớn tuổi, và họ dành cho anh những cái nhìn đầy ác cảm. Người giáo viên trẻ tuổi gầy gò quàng khăn trùm đầu, và những người phụ nữ trong lớp thì thầm đồn đoán về cô này, nói rằng cô sống trong một khu định cư nằm trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và bị ung thư. Người giáo viên yêu cầu tất cả học viên thực hiện một bài tập viết tự do. “Viết bất cứ thứ gì xuất hiện trong đầu các bạn”, cô này nói, “đừng nghĩ, chỉ viết thôi”. Aviad cố ngừng suy nghĩ. Làm vậy thật khó. Những phụ nữ lớn tuổi quanh anh hối hả viết thật nhanh, hệt như các sinh viên cố hoàn thành bài thi trước khi giáo viên yêu cầu họ đặt bút xuống, và sau vài phút, cả anh cũng bắt đầu viết. Câu chuyện anh viết kể về một con cá đang hạnh phúc bơi trong lòng biển thì bị một mụ phù thủy độc ác biến thành người. Con cá không thể quen được với thay đổi này và quyết tâm săn đuổi mụ phù thủy, bắt mụ biến nó trở lại thành cá. Vì đây là một con cá đặc biệt nhanh nhẹn và tháo vát, nó đã kịp kết hôn trong khi săn đuổi mụ phù thủy, và thậm chí còn thiết lập nên cả một công ty nhỏ nhập khẩu đồ nhựa từ vùng Viễn Đông. Với sự trợ giúp của khối lượng kiến thức khổng lồ nó thu thập được khi còn là một con cá bơi qua bảy đại dương, công ty bắt đầu ăn nên làm ra, và đến một thời điểm thậm chí còn lên sàn chứng khoán. Trong khi đó, mụ phù thủy xấu xa, kẻ đã mệt mỏi sau bấy nhiêu năm, quyết định tìm tới tất cả những người từng bị mụ phù phép, xin lỗi họ và trả họ trở lại trạng thái tự nhiên của mình. Rồi đến một ngày kia, thậm chí mụ còn tới gặp con cá đã bị mụ biến thành người. Thư ký của con cá yêu cầu mụ chờ cho tới khi nó kết thúc một cuộc hội nghị đàm thoại trực tuyến quốc tế với các đối tác làm ăn của nó ở Đài Loan. Đến lúc ấy, con cá hầu như không còn nhớ nổi thực ra nó là cá, và công ty của nó đã kiểm soát một nửa thế giới. Mụ phù thủy đợi vài giờ, và khi nhận thấy cuộc họp có vẻ chẳng bao giờ kết thúc, mụ leo lên cái chổi của mình rồi bay đi. Con cá tiếp tục ngày càng thành đạt hơn, chưa nói tới việc nó ngày càng bận rộn hơn. Cho tới một ngày, khi nó đã thực sự già, nó nhìn ra ngoài cửa sổ của một trong số hàng chục tòa nhà đồ sộ ven biển nó đã mua trong một vụ giao dịch bất động sản khôn ngoan, và nhìn thấy biển. Đột nhiên nó nhớ ra mình là một con cá. Một con cá rất giàu có, kiểm soát hàng chục công ty con được giao dịch trên các sàn chứng khoán khắp thế giới. Nhưng vẫn là một con cá. Một con cá trong nhiều năm đã không được nếm vị muối của biển. Khi người giáo viên thấy Aviad đã ngừng viết, cô này nhìn anh dò hỏi. “Tôi không có đoạn kết”, anh khẽ nói với giọng xin lỗi, cố giữ cho giọng nói của mình thật khẽ để không làm phiền đến các quý bà già cả vẫn đang viết miệt mài.
Nếu như truyện ngắn đầu tiên dưới đây đối lập trí tưởng tượng không giới hạn của nhà văn với những tầm thường của đời sống thì truyện ngắn thứ hai lại đề cập đến điều khác hẳn: những bản sao của đời sống luôn tràn ngập nhưng ít người ý thức được điều này.Etgar Keret là nhà văn đương đại nổi tiếng không chỉ trong địa giới quốc gia Israel. Đa nghĩa, phóng túng và hài hước, văn chương của ông đã được dịch ra 36 ngôn ngữ trên thế giới.
L.A.H