TSHoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao, trao đổi với Tiền Phong về bản chất của đợt sụt giảm giá dầu lần này và tác động của nó đến các dự án khai thác dầu của Việt Nam với các đối tác trên biển Đông.
Mũi tên trúng nhiều đích
Chỉ từ tháng 6 đến nay, giá dầu đã sụt giảm khoảng một nửa. Với tư cách một chuyên gia phân tích chiến lược ngoại giao, ông đánh giá như thế nào về yếu tố chính trị trong sự việc này?
TS Hoàng Anh Tuấn: Việc giá dầu mất gần 60 USD/thùng chỉ trong vòng nửa năm có lẽ chỉ lặp lại hai, ba lần trong lịch sử kể từ khi OPEC ra đời năm 1960 đến nay. Đợt giảm giá lần này diễn ra trong bối cảnh nhiều nền kinh tế thế giới gặp khó khăn, các công nghệ khai thác dầu mới vừa được đưa vào sử dụng và đang trong quá trình hoàn thiện. Nếu công nghệ fracking mới của Mỹ hoàn chỉnh thì sẽ khiến giá dầu sụt giảm mạnh nữa trong tương lai.
Việc giá dầu giảm mang lại một số lợi ích. Một số nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu dầu hưởng lợi vì giá dầu giảm sẽ kích thích nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, việc sụt giảm giá dầu cũng gây hậu quả dài hạn về địa-chính trị, địa-chiến lược.
TS Hoàng Anh Tuấn
Giá dầu sụt giảm trong bối cảnh Nga đang là nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới nhưng không nằm trong OPEC, đang bị các nước phương Tây cấm vận, trong khi nền kinh tế của Nga lại lệ thuộc nặng nề vào dầu mỏ và diễn biến của giá dầu. Vì thế, Nga bị ảnh hưởng nhiều nhất khi giá dầu giảm mạnh. Những điều đó cho thấy tính toán của các bên liên quan, chủ yếu là nước sản xuất dầu nhiều nhất thế giới là Ả-rập Xê-út và Mỹ. Trong giai đoạn đầu, khi “đánh” cho giá dầu giảm, Mỹ và Ả-rập Xê-út có một số điểm đồng về chiến lược với từng địch thủ.
Với nguồn thu phụ thuộc lớn vào xuất khẩu dầu và một dân số với phần đông theo dòng Hồi giáo Shiite, Iran đang là đối thủ không đội trời chung của Ả-rập Xê-út thuộc dòng Sunni. Cả hai nước đều cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông, trong khi Iran lại sở hữu vũ khí hạt nhân. Nếu giá dầu lên sẽ làm tăng thế và lực của Iran, giúp họ đẩy mạnh đầu tư vào chương trình hạt nhân, gây ra nguy cơ đe dọa vị thế của Ả-rập Xê-út. Giá dầu giảm tác động trực tiếp làm suy yếu Iran.
Trong khi đó, từ thời Chiến tranh Lạnh đến nay Mỹ luôn tìm cách làm suy yếu Nga vì Nga vẫn là cường quốc quân sự, là thách thức an ninh lớn nhất đối với Mỹ. Sau sự kiện Nga sáp nhập Crimea, giới chức Mỹ và châu Âu lo ngại sự việc này có thể tạo thành tiền lệ, ảnh hưởng đến bản đồ đã được vẽ lại sau Chiến tranh Thế giới 2 ở châu Âu. Họ muốn làm cho nước Nga suy yếu thêm nữa để Nga không còn là mối đe dọa hữu hiệu đối với Mỹ.
Ngoài ra, một số nước trong OPEC như Venezuela, nước từng công khai thách thức Mỹ tại Mỹ La tinh, cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi giá dầu sụt giảm, một nước với 95% xuất khẩu phụ thuộc vào dầu lửa như Venezuela sẽ đối diện với nguy cơ bất ổn xã hội, khiến Mỹ không phải lo ngại nguy cơ an ninh mà Venezuela tạo ra. Rõ ràng, có những điểm đồng giữa Mỹ và Ả-rập Xê-út trong việc làm sụt giá dầu, đặc biệt trong bối cảnh các nước địch thủ của Mỹ đang khó khăn về kinh tế.
Bên cạnh đó còn có yếu tố lợi ích riêng, việc đánh sụt giá dầu một cách có chủ ý và lâu dài của Ả-rập Xê-út còn vì họ muốn duy trì địa vị của mình với tư cách một nước có thể chi phối OPEC và thị trường dầu mỏ trong tương lai. Trong thời gian qua, Mỹ đã đầu tư nhiều vào công nghệ khai thác dầu mới. Nếu Mỹ trở thành nước độc lập về năng lượng, sau đó xuất khẩu dầu và khí đốt sẽ đe dọa vị thế của Ả-rập Xê-út. Ả-rập Xê-út cũng muốn làm chậm lại tiến trình này hoặc ít nhất làm chậm quá trình Mỹ có thể vượt mặt họ, hoặc làm cho ý đồ của Mỹ không được như Mỹ muốn.
Nga mất vũ khí
Từ thực tế đó ông đánh giá như thế nào về hệ quả địa-chính trị, địa-chiến lược của việc giá dầu sụt giảm?
OPEC sản xuất 1/3 lượng dầu của thế giới, nên về lý thuyết, có thể tác động giá dầu toàn cầu. Ảnh: Arabian Business
Việc giá dầu giảm mang lại một số lợi ích. Một số nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu dầu hưởng lợi vì giá dầu giảm sẽ kích thích nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, việc sụt giảm giá dầu cũng gây hậu quả dài hạn về địa-chính trị, địa-chiến lược. Nó sẽ gây ra những khó khăn kinh tế mang tính dây chuyền ở hàng loạt nước, đặc biệt là các nước thành viên OPEC.
Ngoài Nga, Iran và Venezuela còn có những nước khác như Nigeria, Libya, Iraq sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi kinh tế giảm, các nước này có ít tiền hơn để giải quyết các vấn đề xã hội, an ninh nội địa… Giá dầu giảm cũng tác động trực tiếp đến khu vực Trung Đông, gây ra mâu thuẫn giữa các thành viên OPEC ở khu vực. Như chúng ta biết, giá thành khai thác dầu của từng nước khác nhau.
Ví dụ, Ả-rập Xê-út gần như chỉ cần đặt mũi khoan xuống là lấy được dầu lên và đem đi xuất khẩu, nên chi phí khai thác của họ thấp, giá cạnh tranh. Đối với những nước phải chi phí cho vấn đề an ninh nhiều hơn như Iraq, Libya thì chi phí khai thác dầu cao hơn, nên phần lãi thu được cũng ít hơn.
Những nước này muốn cắt giảm sản lượng dầu, nhất là sản lượng của Ả-rập Xê-út, nhưng Ả-rập Xê-út lại có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn, chi phí khai thác rẻ nên họ thậm chí còn muốn giảm giá dầu thêm nữa. Giá dầu càng giảm càng giúp Ả-rập Xê-út mở rộng được thị phần.
Ngoài ra, giá dầu giảm còn tác động đến can dự của Mỹ và các nước khác vào khu vực Trung Đông. Việc Mỹ can dự vào chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (năm 1991) là lần thứ hai (2003) ngoài những yếu tố như Mỹ tuyên bố còn có nguyên nhân sâu xa là Washington muốn khống chế nguồn dầu lửa ở khu vực.
Hiện nay, Mỹ đang tiến nhanh đến sự độc lập về năng lượng, không còn phụ thuộc vào khu vực Trung Đông. Nhưng những nước khác, đặc biệt là các nền kinh tế mới trỗi dậy như Ấn Độ và Trung Quốc, phụ thuộc nhiều hơn vào khu vực này. Những bất ổn ở Trung Đông sẽ tác động trực tiếp đến các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ và Trung Quốc, khiến họ phải can dự nhiều hơn về chính trị và an ninh để đảm bảo khu vực này ổn định.
Đối với Nga, vũ khí dầu lửa sẽ không còn được hiệu quả như trước đây. Sự trỗi dậy của Nga trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008 có vai trò rất lớn của việc giá dầu tăng vùn vụt, từ 17 USD lên 130 USD/thùng, tăng hơn 7 lần trong một thời gian rất ngắn, tạo ra vị thế mới cho nước Nga và ông Putin. Ông Putin nhiều lần sử dụng vũ khí dầu lửa để gây sức ép với châu Âu.
Nhưng lần này và chắc là từ nay trở đi, vũ khí dầu lửa của Nga không còn hữu dụng, khiến nước Nga suy yếu sức mạnh. Vũ khí dầu lửa không còn nằm trong tay Nga nữa mà chuyển sang tay các đối thủ khác như Mỹ. Họ có thể sử dụng vũ khí dầu lửa để phục vụ những mục tiêu địa-kinh tế, địa-chính trị, địa-chiến lược để tạo ra sức ép, tạo ra ảnh hưởng và làm suy yếu nước Nga thêm nữa.
Việc Nga không còn vũ khí dầu lửa có thể tạo ra những bất ổn về kinh tế, chính trị - xã hội trong bản thân nước Nga và tác động đến khu vực ngoại vi của nước Nga hiện nay. Đó là bức tranh chung và rất sơ lược ban đầu về những hậu quả địa-chính trị, địa chiến lược trong thời gian sắp tới.
Ảnh hưởng các dự án của Việt Nam
Việc giá dầu giảm mạnh có thể khiến các nhà đầu tư không còn muốn rót tiền vào những dự án dầu khí. Theo ông, hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với các đối tác như Nga và Ấn Độ sẽ bị ảnh hưởng như thế nào, đặc biệt là trên biển Đông?
TS Hoàng Anh Tuấn nói rằng, Việt Nam cần chuẩn bị đối phó mọi tình huống trong bối cảnh giá dầu giảm mạnh. Ảnh: Trúc Quỳnh
Giá dầu sụt giảm có ảnh hưởng khá lâu dài đến các quyết định đầu tư khai thác mỏ dầu mới trên thế giới. Giá dầu hiện nay là dưới 60 USD/thùng, và xu hướng là tiếp tục giảm. Dự kiến trong năm 2015 giá dầu sẽ duy trì ở mức 45-50 USD/thùng.
Với mức giá thấp như vậy, rất ít nước có đủ khả năng cạnh tranh trên cơ sở trình độ khoa học công nghệ, nguồn dự trữ dầu mỏ tập trung đủ lớn để đảm bảo giá thành khai thác thấp, đặc biệt đối với những nước sản xuất có chi phí an ninh cao như Iraq, những nước khai thác ở các vùng băng giá khó khăn và xa xôi như Nga.
Những nước đầu tư vào khai thác mỏ dầu mới sẽ phải tính bài toán làm sao có thể cạnh tranh khi giá bán thấp như vậy, nếu chi phí quá cao thì họ sẽ phải dừng các dự án mới lại. Dầu là mặt hàng chiến lược, nhưng chưa ai biết trong tương lai nó sẽ đứng ở mức bao nhiêu. Bài toán cung cầu này chưa có lời giải, ít nhất là vào thời điểm hiện nay.
Các dự án thăm dò và khai thác của Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay, với khoảng 500 tỷ USD đang chờ các quyết định đầu tư. Rõ ràng với giá dầu thấp, các nhà đầu tư trên khắp thế giới cũng ngần ngại, họ phải tính toán rất kỹ lưỡng, ít nhất là tại thời điểm này, rằng sẽ đầu tư vào mỏ mới hay dừng lại. Thậm chí những mỏ đang khai thác hoặc sắp đưa vào khai thác nhưng có giá thành cao cũng chỉ sản xuất cầm chừng, phải tính toán giảm mức khai thác để giảm lỗ.
Trong bối cảnh nền kinh tế Nga đang khốn khó vì chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và phương Tây và giá dầu sụt giảm, ông có cho rằng quan hệ hợp tác giữa Nga và Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng?
Nga đã gặp phải 3 trận bĩ cực về kinh tế từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, đó là khủng hoảng kinh tế 1991-1993, 1997-1998 và 2008-2009 đến nay lại gặp cuộc khủng hoảng lần thứ tư. Có thể thấy những khó khăn, khủng hoảng không phải điều mới đối với Nga.
Nếu muốn biết khó khăn kinh tế của Nga ảnh hưởng ra sao đến quan hệ hợp tác với Việt Nam, có thể dựa vào quan hệ kinh tế hai nước qua các thời kỳ khủng hoảng trước. Trong các thời kỳ Nga gặp khó khăn trước đây, quan hệ kinh tế Việt – Nga không bị gián đoạn, thậm chí còn có điều kiện để phát triển.
Hai nước có mối quan hệ truyền thống, không thể bỗng chốc gián đoạn. Ở Nga có một cộng đồng lớn người Việt đang làm ăn, sinh sống từ lâu. Họ cũng đã quen với các giai đoạn thử thách, khủng hoảng nên có thể thích ứng nhanh và tiếp tục làm cầu nối thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa Nga và Việt Nam.
Hơn nữa, khi gặp khó khăn, Nga sẽ cần những mặt hàng tiêu dùng giá thành vừa phải. Đây là điểm mạnh của Việt Nam vì Việt Nam có thể cung cấp những mặt hàng tiêu dùng người Nga cần trong lúc khó khăn. Như vậy, có thể thấy quan hệ kinh tế Việt - Nga vẫn có thể trụ lại qua thời kỳ khó khăn, tuy rằng khó khăn của nước Nga hiện nay khác trước.
Khi Nga đang bị bao vây cấm vận, các giao dịch qua ngân hàng cũng gây ra một số trở ngại. Chưa biết bao giờ Nga mới thoát ra khỏi đợt khủng hoảng lần này, nhưng chúng ta cần chuẩn bị đối phó với tất cả các tình huống.
Cảm ơn ông.
Các dự án khai thác dầu của Việt Nam có một số đặc điểm. Liên doanh khai thác dầu giữa Việt Nam và Nga đã hoàn vốn từ lâu, việc khai thác hiện nay chỉ có lãi. Những dự án này có thể vẫn tiếp tục được trong bối cảnh giá dầu xuống mức 45-50 USD, dù không lãi nhiều nhưng cũng không lỗ. Còn dự án khai thác dầu với Ấn Độ vẫn trong giai đoạn tiềm năng, đang thăm dò, các quyết định đầu tư lớn chưa được đưa ra. Tất cả các yếu tố sẽ phải được cân nhắc xem nên tiếp tục khai thác như thế nào, đầu tư ra sao. Hiện nay vẫn chưa có quyết định cuối cùng.