1. Số lượng Công bố:
Theo Hình 1, không quá ngạc nhiên khi ĐHQG Hà Nội, nơi tập trung đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học, là trường dẫn đầu danh sách công bố báo ISI của Việt Nam. Số lượng công bố của ĐHQG Hà Nội cao hơn 1.5 lần của các trường ở vị trí số 2 và 3, là ĐHQG HCM và ĐH Tôn Đức Thắng trong năm học 2016-2017.
Nếu quan sát kỹ hơn, có thể thấy rằng số lượng công bố của 5 trường dẫn đầu, gồm (1) ĐHQG Hà Nội, (2) ĐHQG HCM, (3) ĐH Tôn Đức Thắng, (4) ĐH Duy Tân, và (5) ĐH BK HN là cách biệt rõ rệt so với nhóm các trường đại học còn lại. Tổng số công bố ISI của "câu lạc bộ tốp đầu" này gần gấp 2 lần số công bố của 15 trường tiếp theo cộng lại. Trong danh sách 20 trường có công bố ISI nhiều nhất năm học 2016-2017, ĐH Duy Tân là đại diện duy nhất của các trường ngoài công lập.
Top 20 trường ĐH Việt Nam công bố ISI nhiều nhất 6 tháng đầu năm 2017
Nếu nhìn vào con số công bố của 6 tháng đầu năm 2017 thì số lượng công bố ISI của hầu hết các trường đều nhỉnh hơn 55% so với tổng số công bố của năm học 2016-2017 (Hình 2). Đây là dấu hiệu tốt cho thấy sự gia tăng theo chiều hướng đi lên trong khối lượng nghiên cứu của các trường đại học Việt Nam dù chưa nói lên được chất lượng hay chiều sâu trong nghiên cứu của từng ngành học.
Trong khối các trường đại học công lập, dù không có bề dày hoạt động như hai ĐHQG Hà Nội và ĐHQG HCM, hay ĐH BK HN, ĐH Tôn Đức Thắng đang nổi lên là một trường tiêu biểu cho công tác nghiên cứu (Hình 3). Sẽ mất nhiều năm nữa để ĐH Tôn Đức Thắng có thể bắt kịp khối lượng công bố ISI của ĐHQG Hà Nội nhưng việc trường có thể ổn định ở vị trí thứ 2 trong khối các trường công lập cũng như của cả nước trong các năm tới là hoàn toàn khả thi. Dĩ nhiên, vị trí thứ 2 cũng hứa hẹn là một cuộc đua quyết liệt giữa hai trường trong cùng thành phố: ĐHQG HCM (bao gồm ĐH Khoa học Tự nhiên HCM và ĐH Bách Khoa HCM) và ĐH Tôn Đức Thắng.
Nếu so sánh giữa các đại học công lập theo các vùng miền khác nhau ở Việt Nam thì theo số liệu năm học 2016-2017, ĐH Thái Nguyên hiện đang là đơn vị dẫn đầu về số lượng công bố ISI (Hình 5). Ba đại học tiếp theo là ĐH Cần Thơ, ĐH Huế và ĐH Đà Nẵng có số lượng công bố ISI xấp xỉ nhau, vào khoảng trên dưới 75 bài ISI cho năm học 2016-2017. Các trường còn lại như ĐH Vinh, ĐH Quy Nhơn và ĐH Tây Nguyên đều có số lượng công bố ISI trong năm từ 40 bài trở xuống.
So sánh lượng công bố ISI của các đại học vùng-miền, năm học 2016-2017
2. Tốc độ Công bố giữa hai năm học 2015-2016 và 2016-20173. Chỉ số Ảnh hưởng IF (Impact Factor)
Phân tích dữ liệu công bố của các trường cho thấy hầu hết các công trình của các đại học Việt Nam được đăng trên các tập san có IF cao đều là những công trình hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài. Hình 7 phần nào cho thấy thế mạnh hợp tác nghiên cứu của các trường qua nhóm tập san họ công bố. Nhóm các đại học như ĐH Y Hà Nội, ĐH Y-Dược TpHCM, ĐH Y tế Công cộng, ĐH Thái Nguyên, ĐH Dược Hà Nội, ĐH Cần Thơ, HV Quân Y, ĐH Duy Tân, và ĐH Tân Tạo được xem là có hợp tác nghiên cứu mạnh về lĩnh vực Y-Dược với các công bố trên các tập san liên quan đến Y tế thuộc hệ thống Lancet. Kế đến là hai ĐHQG với sở trường là các ngành khoa học cơ bản và các công bố trên hệ thống Nature. ĐH KH&CN Hà Nội có ưu thế về Khoa học Vật liệu, Năng lượng, Môi trường, và ĐH Lê Quí Đôn về Kỹ thuật Điện tử-Viễn thông.
Tóm lại, các dữ liệu trên đây mô tả một cách khái quát "bức tranh" công bố quốc tế ISI qua số lượng bài báo của các trường ĐH Việt Nam trong năm học 2016-2017, cho thấy các trường công bố mạnh vẫn là các đại học lâu đời với đội ngũ nghiên cứu đông đảo (các ĐHQG, ĐH BK HN) bên cạnh một vài trường non trẻ (ĐH Tôn Đức Thắng và ĐH Duy Tân). Nhìn chung các trường đại học Việt Nam đều đang nỗ lực gia tăng số lượng công bố nghiên cứu, năm sau tốt hơn năm trước. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho nền khoa học nước nhà dù vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện.