Đại diện cho Bộ Y tế tại buổi công bố báo cáo là Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long; đại diện cho Bộ Tài nguyên và Môi trường là Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân; đại diện cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Thứ trưởng Hà Công Tuấn.
Liên quan đến vấn đề nuôi trồng, đánh bắt hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, các địa phương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân hoạt động nuôi trồng thủy hải sản nước mặn, nước lợ bình thường với tất cả các phương thức: nuôi lồng bè, bãi triều, nuôi trong ao, đầm. Cùng với việc nuôi trồng, thực hiện công tác quan trắc môi trường tại các vùng nuôi trồng thủy, hải sản tập trung trong đó bổ sung các thông số quan trắc là phenol, xyanua.
Về đánh bắt, các địa phương hướng dẫn người dân hoạt động khai thác hải sản bình thường trên các vùng biển, kết hợp với lấy mẫu giám sát an toàn thực phẩm với hải sản khai thác. Tuy nhiên, với ba vùng biển nhạy cảm mà hàm lượng độc tố còn cao là Sơn Dương - Hà Tĩnh (diện tích khoảng 300 km2), cửa Nhật Lệ - Quảng Bình (diện tích khoảng 330 km2), hòn Sơn Chà - Thừa Thiên - Huế (diện tích khoảng 160 km2), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khuyến cáo ngư dân chưa khai thác. Đồng thời không sử dụng các nghề khai thác tầng đáy như câu đáy, lưới kéo, lặn lồng bẫy, khai thác nhuyễn thể hai mảnh, trong vùng 20 hải lý trở vào bờ thuộc bốn tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế.
Về vấn đề giám sát an toàn thực phẩm hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, sẽ thực hiện giám sát tại cảng cá, bến cá khi tàu của ngư dân cập bờ và lưu ý các loại hải sản tầng đáy thường gặp ở 4 tỉnh miền Trung. Thời điểm lấy mẫu giám sát là khi sản phẩm khai thác được bốc dỡ từ tàu khai thác đưa lên bờ tiêu thụ . Tần suất lấy mẫu 2-3 ngày/lần, tùy vào điều kiện thực tế ở địa phương. Số lượng mẫu sẽ đại diện cho các tàu đang đưa cá lên bờ tại thời điểm lấy mẫu, sẽ lựa chọn các cá thể mẫu đảm bảo đại diện tầng sinh thái (tầng đáy, tầng nổi) và các loại hải sản khác nhau.
Về sản xuất muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, việc sản xuất muối có thể thực hiện bình thường và sẽ lấy mẫu giám sát chất lượng muối.
Theo kết luận của Bộ Y tế, tất cả các hải sản như cá ngừ, cá thu, cá nục, cá chỉ vàng, cá bạc má, cá hố, cá bò, cá cam, cá trích, cá đuối, cá cơm và các loại hải sản khác sống ở tầng nổi, hải sản nuôi ở vùng đầm nuôi của 4 tỉnh miền Trung đều đảm bảo an toàn. Trong khi đó, các loại cá tầng đáy như như ghẹ, tôm, tôm tít, ốc, cá đục, bạch tuộc, cua đá… ở tầng đáy trong vòng 13,5 hải lý chưa đảm bảo an toàn để sử dụng làm thực phẩm.
Cụ thể, Bộ Y tế đã tiến hành phân tích hơn 1040 mẫu hải sản được lấy hàng ngày ở các cảng cá, đầm nuôi, thuyền cá tại 4 tỉnh miền Trung và 300 mẫu hải sản đối chứng ở Hải Phòng, Khánh Hòa và Bà Rịa – Vũng Tàu. Các mẫu cá được kiềm nghiệm các chỉ tiêu xyanua, phenol, thủy ngân, cadimi, chì, crom, asen và sắt. Hai nơi thực hiện xét nghiệm là Viện Dinh dưỡng Quốc gia và Việc Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh việc phân tích tại Việt Nam, Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ với chuyên gia của Tổ chức Y tế Thế giới WHO và các chuyên gia an toàn thực phẩm ở Nhật, Canada. Ngoài việc phân tích ở Việt Nam, các mẫu phân tích còn được gửi đi Nhật Bản, Singapore để kiểm chứng
Theo kết quả phân tích, tất cả các mẫu hải sản ở miền Trung đều không phát hiện có xyanua - một trong hai độc tố gây ra sự cố cá chết miền Trung. Các chỉ số asen, thủy ngân, cadimi, chì, crom, sắt ở cả 7 tỉnh gồm 4 tỉnh miền Trung và 3 tỉnh đối chứng đều nằm trong giới hạn an toàn. Tuy nhiên, hàm lượng phenol, độc tố còn lại gây ra hiện tượng cá chết lại bất thường ở các hải sản tầng đáy. Cụ thể, tất cả hải sản tầng nổi đều không phát hiện ra phenol. Tuy nhiên, ở tầng đáy phát hiện 132 mẫu hải sản, chủ yếu là các sinh vật tầng đáy có nhiễm, phân bố trong vùng từ 5-25km với tỷ lệ nhiễm cao nhất là Hà Tĩnh, Quảng Bình, thấp nhất là Lăng Cô, Thừa Thiên Huế.
Với kết luận trên, Bộ Y tế đề nghị không sử dụng các loại hải sản sống ở tầng đáy trong vùng 20 hải lý đồng thời đề nghị UBND bốn tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế tiến hành phân loại hải sản theo từng lô. Sở Y tế các tỉnh lấy mẫu theo từng lô và trả kết quả cho đơn vị quản lý được UBND giao nhiệm vụ. Chỉ cho phép lưu hành với sản phẩm đã được xét nghiệm an toàn. Với các lô không an toàn buộc phải tiêu hủy và đền bù theo quy định.
Theo Bộ Y tế, trong thời gian tới, Bộ này sẽ phối hợp cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện giám sát định kỳ đối với hải sản được khai thác ở bốn tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế đồng thời tiếp tục lấy mẫu các loại hải sản có phát hiện phenol và hải sản tầng đáy trong vòng 20 hải lý để tiến hành xét nghiệm, giám sát.
Ngày 22/8, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức công bố kết quả điều tra, đánh giá mức độ phạm vi ô nhiễm môi trường biển sau sự cố môi trường Formosa, theo đó trên cơ sở phân tích 1080 mẫu (tháng 5), 331 mẫu (tháng 6) và 68 mẫu kiểm chứng (tháng 8), so sánh đối chiếu với QCVN về chất lượng nước biển cho thấy về cơ bản hầy hết các thông số đều nằm trong giới hạn cho phép. Riêng thông số tổng phenol trong tháng 6 hàm lượng có tăng lên và một số mẫy vượt giới hạn cho phép, chủ yếu là mẫu tầng đáy.
Nguyên nhân là do cơ chế nhả hấp phụ phenol từ dạng phức hỗn hợp dưới dạng keo sắt và từ trầm tích đáy vào nước biển. Đến tháng 8/2016 hàm lượng tổng phenol trong nước biển đã giảm đến giá tri nhỏ hơn giới hạn cho phép.
Về chất lượng trầm tích biển: Trên cơ sở kết quả phân tích của 29 mẫu trầm tích (tháng 5) và 146 mẫu trầm tích bề mặt, 16 điểm mẫu cột trầm tích (tháng 6), so sánh đối chiếc với QCVN cho thấy tại các khu vực được quan trắc, tấtcả các thông số bao gồm cả nhóm thông số là nguyên nhân chính gây sự cố môi trường đã nằm trong giới hạn quy định của QCVN (43:2012/BTNMT).