Giảm từ 3.654 xuống còn…111 quy hoạch
Ngày 30/5, Quốc hội sẽ dành cả ngày thảo luận ở hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết về Chương trình giám sát tối cao năm 2022 và Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát chuyên đề về nội dung này.
Thông tin từ kết quả giám sát cho thấy, trong tổng số 111 quy hoạch được lập theo quy định của Luật Quy hoạch có 110/111 quy hoạch đã được phê duyệt nhiệm vụ, trong đó 41/42 quy hoạch cấp quốc gia, 6/6 quy hoạch vùng và 63/63 quy hoạch tỉnh. Đến nay, có 7/111 quy hoạch đã được quyết định hoặc phê duyệt, bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất quốc gia; bốn quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực giao thông vận tải; Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long và Quy hoạch tỉnh Bắc Giang.
Với việc xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia như trên, số lượng quy hoạch được lập cho cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh còn 111 quy hoạch, gồm: một quy hoạch tổng thể quốc gia; một quy hoạch không gian biển quốc gia; một quy hoạch sử dụng đất quốc gia; 39 quy hoạch ngành cấp quốc gia; sáu quy hoạch vùng và 63 quy hoạch tỉnh. Như vậy, số lượng quy hoạch đã giảm từ 3.654 quy hoạch thời kỳ trước khi Luật quy hoạch có hiệu lực xuống còn 111 quy hoạch, giảm 3.543 quy hoạch (giảm 97%).
“Không chỉ giảm về số lượng, quan trọng hơn, hệ thống quy hoạch quốc gia với 111 quy hoạch, thay thế cho trên 3.600 quy hoạch trước đây đã thiết lập một hệ thống quy hoạch thống nhất, giản lược, có tầng bậc, tích hợp, dễ theo dõi và thực hiện, qua đó tập trung hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước vào các mục tiêu phát triển, không gian phát triển mới, giá trị mới và động lực phát triển mới của quốc gia, vùng và địa phương”, Đoàn giám sát nêu.
"Nếu mở đường thắng lợi thì cuộc chiến sẽ thắng lợi"
Đáng lưu ý, theo Đoàn giám sát, đây là lần đầu tiên, Quy hoạch tổng thể quốc gia được triển khai lập ở nước ta. Việc lập quy hoạch tổng thể quốc gia là cần thiết nhằm tạo ra sự thống nhất giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch; giúp cho việc phân bổ nguồn lực quốc gia, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng, công tác lập quy hoạch tổng thể quốc gia đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của từng ngành, từng vùng, từng địa phương nói riêng. Công tác quy hoạch được ví như là một người công binh mở đường, nếu mở đường thắng lợi thì cuộc chiến sẽ thắng lợi, còn nếu chúng ta làm không tốt sẽ dẫn đến sự thất bại, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ hội bố trí, sắp xếp lại không gian phát triển của quốc gia để đạt mục tiêu, khát vọng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
"Một trong những quan điểm quan trọng về phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước khi lập quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 là phát triển quốc gia như một thể thống nhất, không bị chia cắt, không bị ràng buộc bởi địa giới hành chính, các nguồn lực đất nước được huy động và sử dụng một cách hiệu quả nhất vì lợi ích quốc gia", Bộ trưởng Dũng nhấn mạnh.
Phát triển các hành lang kinh tế
Điểm đáng lưu ý khác, trong định hướng tổ chức lãnh thổ quốc gia dự kiến tập trung hình thành và phát triển các hành lang kinh tế và vùng động lực.
Về phát triển các hành lang kinh tế: Tập trung hình thành và phát triển hành lang kinh tế Bắc – Nam và các hành lang kinh tế Đông – Tây.
Dự kiến có hai hành lang Bắc – Nam: Hành lang phía Đông gắn với đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông và QL 1A từ Lạng Sơn đến Cà Mau và Hành lang phía Tây gắn với đường Hồ Chí Minh và đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây từ Cao Bằng đến Kiên Giang – Cà Mau.
“Trong giai đoạn đến năm 2030 ưu tiên phát triển Hành lang kinh tế phía Đông và phát triển dải ven biển”, Đoàn giám sát chỉ rõ.
Về các hành lang kinh tế Đông – Tây, ưu tiên hình thành các hành lang kinh tế có các điều kiện thuận lợi, như: Có trục giao thông quan trọng, thường là đường cao tốc; gắn với các đầu mối giao thương quan trọng như cảng biển, cửa khẩu quốc tế, sân bay quốc tế...; các địa phương trên hành lang có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị…
Trên các hành lang kinh tế sẽ định hướng bố trí các trung tâm kinh tế, trung tâm dịch vụ, du lịch gắn với các đô thị lớn, các cửa khẩu, các đầu mối giao thông quan trọng trên hành lang.
Cùng với hành lang kinh tế, hiện cả nước có bốn vùng kinh tế trọng điểm với quy mô khá lớn, gồm 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do quy mô các vùng kinh tế trọng điểm quá lớn, chưa có cơ chế chính sách ưu đãi vượt trội nên chưa thực sự trở thành các vùng động lực, nhiều địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm có trình độ phát triển dưới hoặc tương đương mức trung bình cả nước.
“Sau khi xác định các hành lang kinh tế ưu tiên, các vùng động lực; cần bố trí không gian phát triển các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mạng lưới kết cấu hạ tầng, hệ thống đô thị, phát triển các vùng gắn với các hành lang kinh tế và hình thành, phát triển các vùng động lực”, Đoàn giám sát nêu.