TS. Vương Quân Hoàng chia sẻ tại hội thảo. Ảnh: Nghiêm Huê.
Nhóm nghiên cứu đã tìm ra và thu thập được thông tin của 410 nhà KHXH&NV ở Việt Nam đã có bài đăng trên các ấn phẩm khoa học thuộc danh mục của Scopus (cơ sở dữ liệu thư mục chứa bản tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học) trong vòng 10 năm qua (từ 2008 – 2017). Theo ước tính ban đầu, con số 410 người này chiếm không dưới 80% tổng số học giả Việt Nam đã xuất bản trong Scopus. Những kết quả ban đầu cho thấy khá bất ngờ.
Thứ nhất, xuất bản trong lĩnh vực KHXH&NV của người Việt Nam trên các ấn phẩm khoa học của Scopus bao trùm ít nhất 12 lĩnh vực lớn (luật, chính trị, quản trị, ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật, triết học, xã hội học, tâm lý học…).
“Nhìn vào phân bố có thể thấy rõ chúng ta đã có những học giả thành công trong việc công bố quốc tế đến từ những ngành được cho là mang tính đặc thù tại Việt Nam. Thực tế này chỉ ra sự thiếu thuyết phục của luận điểm cho rằng yêu cầu công bố trên các ấn phẩm quốc tế không phù hợp với đặc thù của KHXH&NV tại Việt Nam” – nhóm nghiên cứu nhận định.
Cũng theo nhận định của nhóm, nếu trong ngành KHXH&NV đã có những nhà khoa học thành công như vậy thì phản ứng hợp lý trước tiêu chuẩn đào tạo mới, hoặc dự thảo tiêu chuẩn GS, PGS nên bắt đầu tìm hiểu rõ những yếu tố dẫn đến việc họ vượt qua rào cản về tính đặc thù để công bố quốc tế chứ không phải phủ nhận khả năng công bố quốc tế của nền KHXH&NV nước nhà bằng những đánh giá mang tính chủ quan, cảm tính.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu cho biết người có sản lượng tuyệt đối cao nhất đạt tới 63 bài trong gần 10 năm qua nhưng sản lượng bình quân chỉ là 3,6. Người có số bài giữ vai trò chủ đạo cao nhất là 60 bài, nhưng bình quân toàn mẫu dữ liệu chỉ là 1,77.
Thứ ba, mối quan hệ giữa số năm nghiên cứu, tổng số lượng bài đã đăng và số lượng bài đã đăng với vai trò chủ đạo cho thấy dường như tuổi nghề nghiên cứu không tỷ lệ thuận với sản lượng công bố quốc tế. Nhóm có tuổi nghề trung bình (từ 15 đến 25 năm) là nhóm tích lũy được số công trình nhiều nhất và cũng là nhóm thực hiện vai trò chủ đạo trong nghiên cứu nhiều nhất.
Kết quả của nhóm cũng cho thấy, người có bài công bố trên Scopus nhỏ tuổi nhất của Việt Nam là 19 tuổi và cao tuổi nhất là 72 tuổi. Trước khi công bố những kết quả ban đầu, nhóm nghiên cứu cũng đã có 3 bài được công bố quốc tế.
Tại buổi hội thảo, PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam khẳng định nhóm nghiên cứu đã dũng cảm làm một việc mà từ trước tới nay chưa ai làm. “Lần đầu tiên khi nghe kết quả nghiên cứu sơ bộ tôi nghĩ rằng Việt Nam cũng có nghiên cứu KHXH&NV” – PGS. Nguyễn Ngọc Châu cho hay. Vì trước đến nay vẫn cứ tranh luận là Việt Nam chưa thực sự có KHXH.
Còn TS. Vương Quân Hoàng cho rằng, trong kỷ nguyên số hiện nay, nghiên cứu khoa học đang có rất nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều thách thức. Trong đó, một trong những thách thức phải kể đến “tai nạn” về data và quá trình quy nạp thiếu tin cậy của tâm lý học. Nhờ có công nghệ, có khoa học mà những người làm nghiên cứu có thể kết nối với nhau, không phải chỉ là những “con sói đơn độc” như ngày xưa.
“Cách đây ba năm, tôi nghĩ mình chỉ là một con sói đơn độc nhưng đến giờ thì việc kết nối với những người cùng ý tưởng sẽ rất nhanh. Hiện nay, chúng tôi nhận thấy với ngành KHXH&NV của Việt Nam có khoảng 20 nhóm. Nhưng số nhóm sẽ còn tăng lên nhiều hơn” – TS.Vương Quân Hoàng nhận định.
Theo ước tính ban đầu của nhóm chỉ khoảng 500 nhà nghiên cứu KHXH&NV Việt Nam đã có bài đăng trong ấn phẩm khoa học thuộc danh mục Scopus. Trong khi đó, theo con số của Bộ KH&CN, năm 2015, Việt Nam có khoảng 24.000 tiến sĩ. Giả sử số lượng tiến sĩ trong lĩnh vực KHXH&NV chiếm một nửa thì rõ ràng con số 500 trên là quá khiêm tốn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để KHXH&NV Việt Nam có thể nâng tầm ảnh hưởng quốc tế nếu không thể cải thiện tỷ lệ đang rất thấp này?