GS Nguyễn Thị Kim Oanh, Viện Công nghệ Châu Á, chia sẻ, đầu năm 2019, Thái Lan bước vào đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng kéo dài gần một tháng. Cơ quan chức năng ban đầu có sự thờ ơ nhất định nhưng sau đó triển khai hàng loạt giải pháp hạn chế ô nhiễm như cấm một số phương tiện cá nhân, không cho người dân nấu nướng ngoài đường, khuyến khích dùng phương tiện công cộng, trường học ở thủ đô Bangkok đóng cửa. Cơ quan chức năng cũng cung cấp cho người dân một ứng dụng chính thức để thông báo chất lượng không khí hằng ngày.
Bắc Kinh từng là thành phố ô nhiễm nhất thế giới nhưng đến nay đã được cải thiện nhờ các biện pháp mạnh tay. Chính phủ khoanh vùng các khu vực ô nhiễm nhất và đặt lộ trình trong 5 năm phải giảm hàm lượng bụi PM2.5 khoảng 15%, 20%, 25%, tùy khu vực.
“Việt Nam cần có chiến lược ngăn ngừa ô nhiễm không khí với các mục tiêu và hành động cụ thể như giảm bao nhiêu % bụi PM2,5, chứ không phải mục tiêu chung chung”, bà Oanh nói.
Theo TS Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, những ngày qua, phản ứng của cơ quan chức năng trong vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TPHCM không kịp thời khiến người dân lo lắng. Ông cho rằng, người dân cần được thông tin đầy đủ, kịp thời để có hành động phù hợp nhằm giảm thiểu tác động đến sức khỏe. Ví dụ, biết chỉ số bụi mịn PM2.5 lên cao, người già, trẻ nhỏ có thể hạn chế ra ngoài, trường học hạn chế hoạt động ngoài trời.
TS Tùng nói: “Việt Nam đang thiếu hàng loạt điều kiện cần thiết để triển khai các biện pháp lâu dài giảm thiểu ô nhiễm không khí. Chúng ta chưa kiểm kê được các nguồn gây ô nhiễm nên không thể đặt hành động ưu tiên”.
Năng lực quan trắc của Việt Nam cũng hạn chế. Hà Nội có 3 trạm quan trắc cố định (số liệu có độ tin cậy cao), TPHCM không có trạm cố định nào. Cơ quan chức năng không có cơ sở dữ liệu để đưa ra khuyến cáo với người dân. Việt Nam cũng chưa dự báo được chất lượng không khí khi số liệu quan trắc mỏng, số liệu các ngành khác như khí tượng, viễn thám khó tiếp cận.