Sáng 2/5, phát biểu tại hội thảo về chủ nông nghiệp "Tạo lập và phát triển bền vững các chuỗi giá trị nông, lâm, thủy sản hội nhập quốc tế" (thuộc Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019), “vua tôm” Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn Minh Phú cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất ngành tôm là sản xuất nhỏ lẻ và không truy suất được nguồn gốc, dẫn tới không có chứng nhận quốc tế.
Theo ông, chúng rất khó bán hàng với tình trạng trên. “Giấy thông hành bán tôm ra thị trường quốc tế và các nước lớn là phải có chứng nhận quốc tế, mỗi thị trường có những chứng nhận quốc tế khác nhau. Người dân sản xuất nhỏ lẻ thì không thể nào có được những giấy chứng nhận đó”- ông Quang nói.
Về liên kết chuỗi, theo ông Quang, để giải quyết bài toán liên kết chuỗi nuôi tôm, Minh Phú đã nhiều năm đi tìm lời giải. “Đầu tiên là mua đất, thuê đất để nuôi tôm nhưng không được, sau đó thành lập công ty cổ phần để người nông dân góp đất nuôi tôm cũng không xong”- ông Quang nói.
Và sau nhiều năm trăn trở, “vua tôm” Minh Phú đã tìm đến giải pháp thành lập công ty cổ phần xã hội, là một mô hình có thể thực hiện tốt nhất và có lời giải cho nhiều “nút thắt”.
Ông Quang phân tích: Khi tham gia mô hình, tất cả những người nuôi tôm sẽ góp đất, nuôi và bán sản phẩm trên chính mảnh đất của mình. Như vậy một hộ nuôi tôm coi như ao nuôi tôm của một doanh nghiệp lớn và vấn đề truy suất nguồn gốc để cấp giấy chứng nhận quốc tế đã có lời giải.
Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội lại vướng quy định của Luật Chứng khoán, bởi các công ty cổ phần từ 100 cổ đông trở lên, vốn điều lệ trên 10 tỷ phải hoạt động theo Luật Chứng khoán. Trong khi đó, doanh nghiệp xã hội không bắt buộc người dân đóng cổ phần mà họ tự nguyện, khi làm ăn tốt họ tham gia, khi không tốt họ ra đi.
Thế nhưng, theo Luật Chứng khoán, cứ mỗi lần doanh nghiệp “vào, ra” lại chờ xin Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, nhanh nhất 6 tháng đến một năm. “Chúng tôi kiến nghị Chính phủ là các doanh nghiệp xã hội không chịu sự chi phối của Luật chứng khoán”- ông Quang đề xuất.
Theo “vua tôm”, không sản phẩm nào thu hoạch nhanh bằng nuôi tôm, chỉ 2-3 tháng đã có lợi nhuận 1- 1. Tuy nhiên, điểm nghẽn là rất khó huy động đất để nuôi tôm. Bởi, nguyên liệu cho các nhà máy chỉ đáp ứng 30 - 50 %, nhiều nhà máy phải đóng cửa do thiếu nguyên liệu. Đây cũng là tình trạng đẩy giá thành sản xuất tôm cao gấp 2- 3 lần”- ông Quang nói.
Chủ tịch Tập đoàn Minh Phú cũng cho rằng, nếu đủ nguyên liệu, nguồn vốn thì chỉ thời gian ngắn sẽ đạt mục tiêu Chính phủ đưa ra về phát triển ngành tôm. “Minh Phú là đơn vị sản xuất tôm lớn nhất thế giới, chúng tôi thấy rằng bài toán bức xúc nhất là liên kết doanh nghiệp xã hội và bảo hiểm nông nghiệp”, ông Quang nói.
Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch tỉnh Cà Mau cũng cho rằng, mô hình doanh nghiệp xã hội sẽ giúp khắc phục sản xuất nhỏ lẻ. “Tôi kiến nghị mô hình thí điểm chính sách, nghĩa là không chỉ thực hiện chính sách hiện hành mà là các cơ chế mới. Tất nhiên trong quá trình thực hiện sẽ có những cơ chế thất bại, nhưng chính sách nào thành công sẽ được luật hoá và giúp nhân rộng trong thực tiễn”- ông Sử nói.
Lãnh đạo tỉnh Cà Mau cũng cho biết thêm, tháng 2/2019, Cà Mau tổ chức tọa đàm về liên kết chuỗi ở ngành tôm. “Chúng tôi đã chính thức đăng ký với Chính phủ, Ban tổ chức Trung ương cho phép triển khai các mô hình thí điểm và Cà Mau xin xung phong triển khai mô hình này”- ông Sử nói.
Trong khi đó, theo ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Thủy sản (Bộ NN&PTNT), Thủ tướng đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam, với kỳ vọng đến năm 2025 giá trị xuất khẩu đạt 10 tỷ USD, trong đó 8,4 tỷ USD là tôm thẻ và tôm sú.
“Nhìn lại năm 2018 ngành tôm đạt sản lượng 760.000 tấn, trong đó có gần 300.000 tấn tôm sú, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD - đây là sản lượng mà không nước nào đạt được”- ông Luân nói.
Ông Luân cũng cho biết, ngành tôm Việt Nam có nhiều lợi thế nhưng đang gặp thách thức lớn về biến đổi khí hậu, muốn tăng diện tích nuôi tôm đòi hỏi đầu tư về khoa học kỹ thuật, trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, ngành sản xuất tôm còn nhỏ lẻ (chiếm 70-80% diện tích), thực trạng này dẫn đến khó khăn trong hội nhập và đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc.
“Với bối cảnh sản xuất nhỏ lẻ, liên kết kém, khó khăn về nguồn tôm bố mẹ và cơ sở hạ tầng nên giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh hạn chế”- ông Luân phân tích.
Theo lãnh đạo Tổng cục Thuỷ sản, qua theo dõi 74 chuỗi liên kết ở các tỉnh Ca Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng, cho thấy lợi nhuận tăng, chi phí đầu tư giảm 10-30%, giá bán ra ổn định.
“Liên kết ngành là tất yếu. Mong rằng thời gian tới, ngành tôm thử nghiệm chuỗi hoàn chỉnh từ vật tư đầu vào, người nghiên cứu, đến doanh nghiệp, ngân hàng... Chúng tôi cũng muốn có cơ chế bảo hiểm gắn vào chuỗi liên kết để tăng thương hiệu và khả năng cạnh tranh của tôm Việt Nam”- ông Luân nói.