Trung Quốc tạo tiền lệ nguy hiểm ở khu vực

Tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc mới đây trở lại bãi Tư Chính, tiếp tục xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam Ảnh: china Daily
Tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc mới đây trở lại bãi Tư Chính, tiếp tục xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam Ảnh: china Daily
TP - Việc Trung Quốc điều nhóm tàu Hải Dương 8 vi phạm và tái vi phạm vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam là hành động rất nghiêm trọng, tạo ra tiền lệ nguy hiểm và làm xói mòn lòng tin ở khu vực. Việt Nam đang kiên quyết đấu tranh bằng chính nghĩa của mình.

Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Phạm Quang Vinh khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với PV Tiền Phong ngày 21/8.

Trung Quốc tạo tiền lệ nguy hiểm ở khu vực ảnh 1 Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Phạm Quang Vinh
PV: Theo ông việc nhóm tàu Hải Dương 8 vi phạm và tái vi phạm vùng biển của Việt Nam nói lên điều gì?

Ông Phạm Quang Vinh: Đây là sự vi phạm, và còn tái diễn, rất nghiêm trọng đối với vùng biển của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982). Chúng ta cần lên tiếng, đã lên tiếng và vận động công luận lên tiếng phản đối sự vi phạm này và yêu cầu Trung Quốc phải rút.

Điều thứ hai tôi muốn nhấn mạnh là những hành vi của Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam không chỉ là sự tái diễn nguy hiểm đối với Việt Nam mà còn tạo ra tiền lệ nguy hiểm đối với khu vực, làm xói mòn lòng tin đối với khu vực với mong muốn duy trì trật tự luật pháp trên biển, xây dựng lòng tin vì hợp tác và phát triển ở khu vực. Tất cả các quốc gia trong và ngoài khu vực, trong đó có cả ASEAN và Trung Quốc, cần nêu cao trách nhiệm về thượng tôn pháp luật, xây dựng hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực này. 

Việc Trung Quốc viện dẫn “đường lưỡi bò” đã bị thế giới bác bỏ, bị Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế về UNCLOS 1982 bác bỏ để xâm phạm vùng biển của nước khác, trên thực tế là thực hiện những đòi hỏi phi lý của Trung Quốc trên những vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia thành viên khác của UNCLOS 1982, là không thể chấp nhận được. 

Những nỗ lực của ASEAN và Trung Quốc trong thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) cũng như việc soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) cần phát huy những gì tích cực đã có, nhưng cũng phải cập nhật tình hình mới, trong đó có những diễn biến phức tạp hiện nay và trong thời gian qua, phải nhấn mạnh vấn đề thượng tôn pháp luật, trong đó có UNCLOS 1982; phải kiềm chế không làm phức tạp tình hình; phải đóng góp xây dựng lòng tin ở khu vực; phải tôn trọng những vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven biển được xác định trên cơ sở luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. 

Lập trường của Việt Nam là kiên quyết đấu tranh bằng biện pháp hòa bình. Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả của phương pháp này?

Việt Nam đã và sẽ tiếp tục lên tiếng để khẳng định chính nghĩa của mình, nói lên chủ trương hòa bình, hòa hiếu của Việt Nam, nhưng cũng kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình theo luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Theo đó, Việt Nam đã liên hệ thường xuyên với Trung Quốc để yêu cầu Trung Quốc tôn trọng vùng biển của Việt Nam. Chúng ta đã yêu cầu công luận cả trong và ngoài khu vực lên tiếng để phản đối hành vi vi phạm của các tàu Trung Quốc, đồng thời yêu cầu phải thúc đẩy hơn nữa tinh thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực.

Quan trọng nhất là Trung Quốc phải rút các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Những việc chúng ta đang làm vừa thể hiện chính nghĩa của Việt Nam theo luật quốc tế, vừa thể hiện chủ trương hòa bình, hòa hiếu, nhưng cũng rất kiên quyết, kiên trì. Chúng ta cần tiếp tục dựa trên luật pháp quốc tế, tiếp tục vận động dư luận và công khai những sự việc vi phạm này, đồng thời duy trì sự hiện diện của lực lượng chấp pháp để khẳng định chủ quyền biển đảo của mình. Khi luật pháp quốc tế và chính nghĩa được dư luận ủng hộ sẽ có sức nặng lớn để góp phần không chỉ bảo đảm quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam, mà còn bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật và đóng góp vào hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực này.

Biển Đông hiện nay là nơi cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Ông có cho rằng Việt Nam nên điều chỉnh tư duy của mình?

Câu chuyện cạnh tranh nước lớn không phải bây giờ mới xảy ra, mà đã có trong lịch sử cận đại và hiện đại. Công cụ quan trọng để điều chỉnh những chuyện đó là các nước, dù lớn hay nhỏ, đều phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp quốc tế. Dù cạnh tranh như thế nào thì một mặt các nước phải tuân thủ luật quốc tế, mặt khác phải kiểm soát cạnh tranh để đóng góp một cách tích cực và xây dựng vào hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay cũng như lịch sử luật pháp quốc tế hiện đại, quốc gia lớn nhỏ đều có tiếng nói bình đẳng của mình, trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền, trong thể hiện lập trường, bảo vệ lợi ích cũng như đóng góp tiếng nói vào lợi ích chung, vào hòa bình, ổn định và hợp tác của khu vực.

Gần đây Trung Quốc nói họ và ASEAN đã đạt được “tiến triển lớn” trong đàm phán COC. Đánh giá của ông như thế nào? 

Câu chuyện quan trọng nhất là nội hàm của COC phải đáp ứng được yêu cầu đặt ra là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực này, bảo đảm trật tự trên biển, bảo đảm trật tự quốc tế và UNCLOS 1982 được tôn trọng; bảo đảm những hành vi phức tạp, vi phạm trong thời gian không được tái diễn. Chúng ta cũng muốn có COC thực chất và hiệu quả theo mục tiêu đó. Đạt được COC là điều tốt, nhưng không thể để hoàn tất sớm mà bỏ qua nội dung. Quan trọng nhất là những nguyên tắc, những nội hàm tích cực của COC phải đáp ứng được trông đợi của cộng đồng quốc tế. ASEAN cũng chủ trương như vậy.

Cảm ơn ông.

 
MỚI - NÓNG