Ngân sách hạn hẹp, phải đi vay để cân đối
Tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 16/10, thẩm tra sơ kết 3 năm thực hiện Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia (2016 - 2020), Uỷ ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội cho biết, tổng thu NSNN 3 năm 2016 – 2018 ước đạt 54,68% kế hoạch 5 năm (6.864 nghìn tỷ đồng).
Tuy nhiên, theo ủy ban thẩm tra, phần tăng thu chủ yếu là ngân sách địa phương, số thu từ sản xuất kinh doanh 2 năm liên tiếp không đạt dự toán (2017 và 2018), ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng của ngân sách trung ương (NSTW) theo kế hoạch và tạo áp lực lên mục tiêu giảm bội chi NSNN.
Cơ quan thẩm tra đề nghị phân tích, đánh giá nguyên nhân số thu nội địa tăng chậm, hụt dự toán trong những năm gần đây để có các giải pháp khắc phục hợp lý; đồng thời, để xây dựng dự toán thu NSNN các năm sau khả thi hơn.
Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng nhận thấy, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua sự suy giảm về tốc độ tăng trưởng kinh tế của giai đoạn 2011-2015, song việc điều chỉnh chính sách thu, công cụ điều tiết các khoản thu chậm đổi mới nên kết quả thu NSNN chưa được như mong muốn; mặt khác, còn thể hiện công tác xây dựng và giao dự toán chưa chú trọng thực sự đến công tác phân tích, đánh giá và nhận định các yếu tố tác động.
Do đó, đề nghị Chính phủ cần quan tâm, khắc phục những hạn chế đã và đang tồn tại trong nhiều năm; nâng cao chất lượng phân tích và dự báo nguồn thu, để xây dựng dự toán thu chắc chắn, bảo đảm cân đối chung trong Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia.
Về chi NSNN, trong 3 năm 2016 – 2018 ước đạt 54,39% kế hoạch 5 năm (8.025 nghìn tỷ đồng); tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, đạt mục tiêu 25-26%, tỷ trọng chi thường xuyên năm sau giảm hơn so với năm trước.
Tuy nhiên, Ủy ban thẩm tra lưu ý, trong bối cảnh nguồn lực NSNN còn hạn hẹp, phải đi vay để cân đối nhưng việc xây dựng, phân bổ và giao dự toán một số năm gần đây nói chung, năm 2017 nói riêng chưa sát với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến cuối năm dư kinh phí (chưa giao đầu năm) hoặc chưa phân bổ; việc trình phương án sử dụng số tiết kiệm chi chậm so với thời gian quy định; vướng mắc trong thực hiện một số khoản chi thường xuyên có tính chất XDCB, không giải ngân được và cũng không thể chuyển nguồn theo Luật NSNN 2015, làm lãng phí nguồn lực.
Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện Kế hoạch Đầu tư công trung hạn còn lúng túng, dẫn đến việc phân bổ, giao dự toán chậm, giao nhiều đợt, tiến độ giải ngân năm 2017, 2018 rất chậm.
Tăng lương chưa đi đôi với tinh giản biên chế
Theo Uỷ ban thẩm tra, cơ cấu chi NSNN có chuyển dịch theo hướng tích cực: Giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng tỷ trọng chi đầu tư trong tổng chi NSNN. Năm 2019, tỷ trọng chi thường xuyên là 63,8%, tỷ trọng chi đầu tư phát triển là 26,3%, cao hơn năm 2018 (26,2%) bảo đảm mục tiêu cơ cấu chi đầu tư - chi thường xuyên theo Nghị quyết của Quốc hội.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch chưa thật mạnh mẽ, nhiệm vụ chi lương và bảo đảm các chính sách an sinh - xã hội ngày càng nhiều, xã hội hóa đầu tư gắn với việc thực hiện cơ chế tự chủ trong lĩnh vực sự nghiệp công lập chậm triển khai, làm tỷ lệ chi thường xuyên chưa giảm mạnh, đòi hỏi phải có những tính toán căn cơ, tiết kiệm chi thường xuyên triệt để, bảo đảm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại chi NSNN.
Cũng theo Uỷ ban Tài chính Ngân sách, việc điều chỉnh mức lương cơ sở, lương hưu và trợ cấp ưu đãi đối với người có công đã bảo đảm tăng bình quân khoảng 7%/ năm. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng lương trong các năm gần đây chưa có lộ trình cụ thể, đã tạo áp lực lớn cho cân đối NSNN, việc tăng lương chưa đi đôi với tinh giản biên chế và giảm chi đối với khu vực sự nghiệp công lập. Ủy ban đề nghị Chính phủ cần tính toán kỹ về vấn đề này, việc điều chỉnh tiền lương cần đặt trong một tổng thể cân đối NSNN bền vững và chắc chắn.
Cơ quan thẩm tra cho biết, tỷ lệ bội chi và nợ công/GDP giảm và hướng tới mục tiêu của kế hoạch đã đề ra theo Nghị quyết 25/2016/QH14. An ninh tài chính quốc gia được đảm bảo, đáp ứng nguồn lực để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh và an sinh xã hội.
Kết quả trên, thể hiện sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và quyết tâm của các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp nói chung và trực tiếp là ngành tài chính, kế hoạch đầu tư cùng với sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, của các cơ quan, tổ chức quốc tế.
Tuy nhiên, Ủy ban cũng cho rằng, để giữ được mức bội chi bình quân cả giai đoạn không quá 3,9% GDP và phấn đấu giảm mạnh để đến năm 2020 bội chi NSNN không quá 3,5%GDP là một thách thức cho cân đối ngân sách trong bối cảnh thu từ các khu vực quan trọng không đạt dự toán, nguồn thu chưa bền vững, một số nguy cơ rủi ro tài khóa có thể xảy ra trong quản lý vay và trả nợ công.
Về quản lý và sử dụng vốn vay ODA, Ủy ban nhận thấy, còn một số hạn chế như: Việc đàm phán, ký kết trong một số trường hợp chưa gắn chặt chẽ với khả năng trả nợ; chất lượng chuẩn bị một số dự án chưa cao; một số dự án phải tăng tổng mức đầu tư, kéo dài thời gian hoàn thành làm tăng nghĩa vụ trả nợ, gây lãng phí; một số dự án trả nợ chậm tiến độ, có dự án không có khả năng trả nợ, đứng trước nguy cơ mất vốn, gây hậu quả nghiêm trọng cho NSNN; huy động nguồn lực ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài có khả năng vượt mức trần theo Kế hoạch Đầu tư công trung hạn.
Thực trạng này đòi hỏi việc sử dụng vốn ODA phải tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa, nghiêm túc tuân thủ các quy định tại các nghị quyết và các văn bản pháp luật liên quan.