Công nghệ vũ trụ đã có bước tiến mạnh mẽ
Thưa ông, ông có thể chia sẻ vai trò của công nghệ vũ trụ trong phát triển kinh tế xã hội cũng như đảm bảo an ninh quốc phòng?
- Chúng tôi rất vui mừng khi Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã khẳng định công nghệ vũ trụ (CNVT) là công nghệ chiến lược và Việt Nam cần sớm ban hành các chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong khai thác, phát triển không gian vũ trụ, cũng như không gian biển và không gian ngầm.
Đây là cơ sở quan trọng để phát triển các hệ thống vệ tinh quan sát Trái đất, cung cấp dữ liệu chất lượng cao phục vụ giám sát và quản lý môi trường, dự báo thiên tai, phòng chống biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên, từ đó hỗ trợ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
CNVT cũng có vai trò rất quan trọng với an ninh quốc phòng nhờ khả năng giám sát và cảnh báo sớm. Hiện nay, vệ tinh có thể thu thập dữ liệu về các hoạt động trên không, trên biển và trên đất liền, giúp phát hiện kịp thời các mối đe dọa và tình huống bất thường. Điều này góp phần nâng cao khả năng ứng phó và phòng ngừa các rủi ro an ninh.
CNVT còn góp phần đảm bảo truyền thông và liên lạc an toàn, nhất là khi xảy ra các tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh, các hệ thống vệ tinh đảm bảo liên lạc không bị gián đoạn, hỗ trợ các hoạt động quân sự và điều phối chiến lược.
Việc phát triển và ứng dụng CNVT, đặc biệt là công nghệ vệ tinh, sẽ giúp Việt Nam tự chủ, giảm phụ thuộc vào nguồn công nghệ nước ngoài, tạo điều kiện cho quốc gia tự chủ về các công nghệ chiến lược, từ đó nâng cao vị thế và sức mạnh tổng hợp trong lĩnh vực quốc phòng.
Có thể khẳng định, theo định hướng của Nghị quyết 57, việc đầu tư và phát triển CNVT, đặc biệt là công nghệ vệ tinh, không chỉ tạo ra những giá trị kinh tế thiết thực mà còn là một yếu tố chiến lược để đảm bảo an ninh quốc phòng, củng cố chủ quyền và khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Ông có thể chia sẻ xu thế phát triển của công nghệ vệ tinh trên thế giới. Trong xu thế đó, Việt Nam nên chọn hướng phát triển như thế nào?
- Những năm gần đây, công nghệ vệ tinh đã có nhiều bước tiến vượt bậc trên thế giới, trong đó nổi lên một số xu hướng. Có thể kể đến như xu hướng phát triển các vệ tinh nhỏ. Hướng đi này giúp giảm chi phí sản xuất và phóng, cho phép triển khai các hệ thống chùm vệ tinh nhằm cung cấp dữ liệu quan sát trái đất cập nhật hàng ngày và phủ sóng toàn cầu.
Một hướng phát triển mạnh mẽ khác là các hệ thống chùm vệ tinh. Chúng ta có thể thấy, các tập đoàn lớn như SpaceX (Starlink), OneWeb và Amazon đang đầu tư mạnh vào các hệ thống chùm vệ tinh để cung cấp dịch vụ Internet tốc độ cao cho các vùng sâu vùng xa, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số toàn cầu. Các công ty lớn về cung cấp dữ liệu ảnh vệ tinh quan sát Trái đất bao gồm cả quang học và radar với tần suất cao có thể kể đến như Planet Labs, ICEYE, Capella Space hay Synspective.
CNVT cũng được cải tiến mạnh mẽ thời gian qua như công nghệ cảm biến trên vệ tinh có độ phân giải ngày càng cao, khả năng thu thập dữ liệu đa phổ và siêu phổ, hỗ trợ ứng dụng trong nông nghiệp, quản lý tài nguyên, giám sát môi trường và an ninh. Sự kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn giúp xử lý thông tin nhanh chóng, đưa ra các dự báo và cảnh báo sớm hiệu quả hơn.
CNVT cũng mở rộng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực viễn thông mà còn trong phòng chống thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu, an ninh quốc phòng và định vị toàn cầu, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao năng lực quản lý của các quốc gia.
![]() |
Hình ảnh mô phỏng vệ tinh LotuSat-1 trên vũ trụ |
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã có Chiến lược về nghiên cứu phát triển và ứng dụng Khoa học Công nghệ Vũ trụ từ 2006 đến nay, sự phát triển của ngành này tại Việt Nam tuy còn mức độ khiêm tốn nhưng chúng ta cũng đã sở hữu 2 vệ tinh viễn thông VINASAT, một vệ tinh quan sát Trái đất VNREDSat-1, các vệ tinh nghiên cứu tự phát triển như PicoDragon, NanoDragon và MicroDragon.
Những năm qua, thông qua công tác hợp tác với Nhật Bản, chúng ta cũng đã hình thành các đội ngũ nhân lực có thể tự thiết kế, chế tạo, vận hành và khai thác các hệ thống vệ tinh.
Hiện nay, dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cũng sắp được hoàn thành. Đây là hạ tầng công nghệ thiết yếu phục vụ thiết kế, chế tạo vệ tinh “Made in Vietnam” và vận hành vệ tinh quan sát Trái đất LOTUSat-1 sử dụng công nghệ radar đầu tiên của Việt Nam nhằm hiện thực hóa Chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ đến 2030.
Với kết quả ban đầu, cùng với quyết tâm chính trị rất cao của Đảng và Nhà nước, chúng tôi tin rằng, Việt Nam có thể sớm tạo ra bứt phá vượt lên chính mình trong lĩnh vực khoa học công nghệ vũ trụ và hòa cùng xu thế phát triển của thế giới.
Xây dựng các thế hệ vệ tinh quan sát Trái Đất “Made in Vietnam”
Theo ông, Việt Nam đang có những thuận lợi, khó khăn gì để phát triển công nghệ vệ tinh. Để đạt được mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 57, chúng ta cần phải hành động như thế nào?
“Việc chuyển đổi số và ứng dụng dữ liệu vệ tinh trong quản lý nhà nước, nông nghiệp, môi trường và an ninh quốc phòng đang được quan tâm, tạo ra thị trường tiềm năng cho công nghệ này. Có thể nói, đã đến lúc Việt Nam cần định hướng tới phát triển Kinh tế không gian vũ trụ”. PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam
- Chúng ta thấy, trên thế giới, chi phí phóng vệ tinh đã giảm đáng kể. Các công nghệ mới trong sản xuất và phóng vệ tinh, cùng với sự xuất hiện của các nhà cung cấp dịch vụ phóng mới với công nghệ tên lửa tái sử dụng, đã giúp giảm chi phí phóng và tăng tần suất triển khai, mở ra khả năng phát triển nhanh chóng các chùm vệ tinh quỹ đạo thấp.
Tại Việt Nam, chúng ta đã có các nghị quyết, chính sách đặc thù hỗ trợ nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cao, trong đó có công nghệ vệ tinh, tạo động lực cho các cơ quan, viện nghiên cứu và doanh nghiệp đầu tư phát triển.
Chúng ta cũng có nền tảng ban đầu về đội ngũ và cơ sở vật chất thông qua các dự án lớn. Việc chuyển đổi số và ứng dụng dữ liệu vệ tinh trong quản lý nhà nước, nông nghiệp, môi trường và an ninh quốc phòng đang được quan tâm, tạo ra thị trường tiềm năng cho công nghệ này. Có thể nói, đã đến lúc Việt Nam cần định hướng tới phát triển “Kinh tế không gian vũ trụ”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy, CNVT là ngành công nghệ rất cao, đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng, đầu tư lớn về thiết bị, công nghệ và cơ sở hạ tầng. Đây là những điểm hạn chế của chúng ta hiện nay. Công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam cũng còn hạn chế.
Các công ty nhỏ có trình độ kỹ thuật chưa cao, trong khi các doanh nghiệp có năng lực kỹ thuật tốt thường không hứng thú với việc chế tạo sản phẩm đơn lẻ do tỷ suất lợi nhuận thấp. Điều này làm cho việc triển khai các thiết kế, chế tạo theo yêu cầu đặc thù của công nghệ vệ tinh trở nên rất khó khăn.
Ngoài ra, chúng ta cũng đối mặt với sức ép cạnh tranh khi các cường quốc và doanh nghiệp quốc tế đã có nền tảng công nghệ và thị trường mạnh.
Để phát triển và làm chủ công nghệ vệ tinh, đặc biệt là vệ tinh quan sát Trái đất, chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vũ trụ Việt Nam đến năm 2040, tầm nhìn 2050, trong đó xác định mục tiêu, lộ trình rõ ràng hướng tới nhu cầu thiết thực của đất nước, ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư vào những đề án, dự án trọng điểm vệ tinh viễn thám (quang học, radar) để tăng cường năng lực quan sát Trái đất của Việt Nam, thu thập dữ liệu chất lượng cao, xây dựng các thế hệ vệ tinh (Micro/Mini) quan sát Trái đất “Made in Vietnam”.
Xin cảm ơn ông!