Nhằm nhận diện những thách thức và cơ hội đối với giáo dục đại học trong thời đại số và góp phần đưa ra những đề xuất về chính sách phát triển giáo dục đại học (ĐH) tại Việt Nam, Viện Quốc tế Pháp ngữ (ĐH Quốc gia Hà Nội) phối hợp cùng một số đơn vị tổ chức Hội thảo quốc tế Chuyển đổi số và Giáo dục ĐH: khi thách thức là cơ hội.
Tại hội thảo, GS.TS Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho hay trong bối cảnh hiện nay, giáo dục ĐH cần phải "tất tay" đối với chuyển đổi số.
Theo GS. Lê Anh Vinh, trong hai năm qua, công tác chuyển đổi số đã vượt xa những gì đã làm trong 10 năm trước đó. Điểm mấu chốt đây là sự lựa chọn trong bối cảnh dịch bệnh để không bị đứt gãy mọi hoạt động giáo dục, không còn là sức ép từ bên ngoài mà là động lực bên trong tự thân mỗi cơ sở giáo dục ĐH.
Thông tin từ báo cáo phân tích ngành giáo dục của Viện Khoa học Giáo dục thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2020 cho thấy xu hướng hệ thống giáo dục tăng đáng kể trong vòng 20 năm qua nhưng quy mô học sinh trong 10 năm qua gần như không thay đổi.
Đây là vấn đề tắc nghẽn liên quan đến nguồn nhân lực của Việt Nam. Số sinh viên/vạn dân gần như không đạt được mục tiêu. Do đó, mở rộng quy mô khó giải quyết. Nhìn vào các nước trong khu vực, tỷ lệ nhập học ĐH của VN tương đối thấp, chỉ dưới 30%, trong khi các nước 40 – 50%.
Chỉ số công bằng giữa các nhóm người vẫn còn bất bình đẳng.
Bên cạnh đó, ngày càng nhiều sinh viên VN đi du học. Năm 2018, Việt Nam có hơn 100.000 sinh viên đi du học, chiếm tỷ lệ 3,6%.
Các trường ĐH của Việt Nam bắt đầu có mặt trong bảng xếp hạng.Công bố bài báo quốc tế cũng tăng mạnh. Tuy nhiên kết quả này vẫn khá khiêm tốn đối với các nước trong khu vực, vẫn còn khoảng cách khá lớn.
Thu nhập của người học tăng lên theo mức độ học vấn, giáo dục ĐH và sau THPT vẫn có giá trị nhất định và có mối liên hệ theo sự phân bổ sinh viên theo ngành nghề. Câu chuyện đào tạo đúng ngành nghề vẫn còn nhiều tranh cãi.
Trong khi đó, GS. Lê Anh Vinh cũng chỉ ra rằng bất cập nữa đối với giáo dục ĐH Việt Nam là ngân sách chi giáo dục ĐH tương đối thấp, chỉ đạt 0,33% - 0,34% GDP, thấp nhất trong các nước OECD và khu vực. Đây là con số theo tỷ lệ %, tính tuyệt đối còn thấp hơn nhiều so với các nước.
Chính vì những bất cập trên nên GS. Lê Anh Vinh cho rằng cần thực hiện chuyển đổi số giáo dục qua bốn động lực là: nâng cao năng lực cạnh tranh, tối ưu hóa tài nguyên, nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm của học sinh và tạo ra văn hóa quyết định dựa trên số liệu (Data-Driven Decision Making).
Trong đó, mức thấp nhất là số hóa tài liệu. Mức độ thứ hai là tự động hóa quy trình để chuyển đổi các hoạt động cơ sở giáo dục. Mức thứ ba là cần sự kết nối đồng bộ hơn.
Ba việc phải tập trung là dạy và học đối với người học, cần có đủ đường truyền hệ thống tốt. Các trường ĐH đang làm và thúc đẩy rất nhiều. Nhưng đã làm đồng bộ hay chưa? Có bao nhiêu trường có hệ thống đủ tốt đáp ứng yêu cầu của người dùng. Số hóa tài liệu được bao nhiêu?
Thứ hai là vận hành và quản lý đã được số hóa chưa.
Thứ ba là đưa ra những quyết định dựa trên dữ liệu.
Theo GS. Lê Anh Vinh trở ngại lớn nhất khi thực hiện chuyển đổi số là con người. Tiên quyết để chuyển đổi số thành công là sẵn sàng đón nhận thay đổi.
Các tham luận của diễn giả trong Hội thảo cũng xoay quanh các chủ đề như: chuyển đổi số trong quản lý giáo dục ĐH, phân hóa xã hội, đại học ảo, Big Data trong môi trường hàn lâm – học thuật, Blockchain và hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục, ...
Ông Ngô Tự Lập, Viện trưởng IFI cho biết, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó chuyển đổi số đóng vai trò trung tâm, đang tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội toàn nhân loại. Vì thế, giáo dục ĐH phải thay đổi căn bản để đáp ứng yêu cầu của thời đại.