> Sang châu Phi lao động hưởng lương “nghìn đô”
> Nhiều chính sách mới có hiệu lực từ tháng 12-2012
> Thu nhập 9 triệu đồng/tháng mới phải đóng thuế: Áp dụng từ 1-7-2013
Lương danh nghĩa tăng 26,8%/ năm
Theo ILO, tăng trưởng lương trên toàn thế giới ở mức thấp hơn nhiều so với thời điểm trước khủng hoảng. Mức lương tháng trung bình trên thế giới tăng 1,2% năm 2011, giảm 3% so với 2007 và 2,1% so với 2010.
Trong khi tăng trưởng lương giảm ở các nền kinh tế phát triển, bức tranh ở châu Mỹ Latin, vùng Caribbean, châu Phi và nhất là châu Á có nhiều gam màu sáng.
Ở Việt Nam, tiền lương danh nghĩa trung bình tăng 26,8% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2010. Ngay cả khi tính đến lạm phát vẫn ở mức cao, tiền lương thực tế vẫn tăng 12,6% hằng năm.
Tăng trưởng lương ở châu Á - Thái Bình Dương duy trì ở mức cao: 6,3% năm 2010, thể hiện khả năng chống chịu khủng hoảng của các nền kinh tế trong khu vực.
Theo báo cáo của ILO, một công nhân làm việc trong lĩnh vực chế tạo ở Philippines mang về nhà 1,4 USD cho mỗi giờ làm việc, so với gần 5,5 USD ở Brazil, 13 USD ở Hy Lạp, 23,3 USD ở Mỹ và gần 35 USD ở Đan Mạch.
Báo cáo chỉ ra rằng, tăng trưởng lương toàn cầu tăng với tốc độ thấp hơn tăng năng suất lao động.
Xu hướng toàn cầu này dẫn tới một sự thay đổi trong phân bổ thu nhập, nghĩa là người lao động được hưởng ít hơn từ thành quả lao động của chính họ, trong khi chủ sở hữu vốn được lợi nhiều hơn.
Theo Tổng giám đốc ILO Guy Ryder, đây là chiều hướng không được mong đợi và cần phải đổi ngược lại.
Ở cấp độ xã hội và chính trị, điều đó có nghĩa là người lao động và gia đình họ không được nhận phần chia công bằng mà họ đáng được hưởng.
Trái với tình hình chung trên toàn cầu, tốc độ tăng trưởng tiền lương danh nghĩa và thực tế ở Việt Nam lại cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động ít nhất 3 lần.
Một trong những lý do lý giải xu hướng này là: Mức lương trung bình ở Việt Nam chỉ thể hiện mức thu nhập của người lao động được hưởng lương (nhóm này chỉ chiếm 33,8% lực lượng lao động).
Trong khi đó, năng suất lao động lại tính đến GDP của tất cả những người có việc làm, gồm cả những người tự kinh doanh.
Tăng chênh lệch lương theo giới
Theo chuyên gia cao cấp về quan hệ lao động của ILO Việt Nam, ông Yoon Youngmo, Chính phủ Việt Nam đã và đang sử dụng lương tối thiểu như một công cụ chính sách để dần nâng mức sàn tiền lương những năm qua (mỗi năm tăng hơn 20%).
Tuy nhiên, theo ông Youngmo, tốc độ tăng lương và mức độ phức tạp ngày một gia tăng của nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc lương tối thiểu không còn là công cụ hữu ích như trước đây để áp đặt xu hướng tiền lương cho người lao động được hưởng lương trong nền kinh tế chính thức.
“Cần thiết phải có các cơ chế quy định lương hữu hiệu hơn. Những cơ chế này cần tính đến sự phát triển của thị trường lao động và đảm bảo rằng tăng trưởng lương phải phù hợp với tăng năng suất lao động”, ông nói.
Theo Giám đốc Quốc gia ILO tại Việt Nam, ông Gyorgy Sziraczki, Việt Nam phải đối mặt những thử thách khác phía trước để đất nước được hưởng lợi đồng đều từ mức tăng trưởng lương.
Các chính sách cần tập trung vào gần 60% lực lượng lao động hiện vẫn thuộc bộ phận kinh tế phi chính thức với năng suất lao động thấp, ít được bảo vệ và thu nhập thấp.
Ông Sziraczki cũng cảnh báo về chênh lệch mức lương theo giới ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
“Trừ khi phụ nữ được trả lương bình đẳng với nam giới cho những đóng góp không kém phần quan trọng của họ ở nơi làm việc, Việt Nam sẽ không thể khai thác được những tiềm năng to lớn của một nửa lực lượng lao động này”, ông Sziraczki nhận định.