Nghiên cứu sẽ được tiến hành trên 10.000 tình nguyện viên trên khắp nước Mỹ trong vòng 4 năm. Hàng năm, những người tham gia sẽ được kiểm tra máu, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu thậm chí cả nước mắt. Tất cả những dữ liệu này sẽ được gửi đến một thiết bị đeo tay thông minh có tên Study Watch mà tình nguyện viên được cung cấp. Study Watch được lập trình để theo dõi mọi chuyển động, nhịp tim và những thay đổi trong độ dẫn điện của da. Ngoài ra, một thiết bị cảm ứng cũng được gắn vào giường để theo dõi giấc ngủ của các tình nguyện viên.
Ngoài chức năng theo dõi, giám sát Study Watch còn cung cấp cho người dùng ứng dụng trao đổi thông tin về sức khoẻ hay thực hiện các bài kiểm tra tra nhận thức. Những thắc mắc của tình nguyện viên sẽ được giải đáp định kỳ mà không tốn thời gian.
“Các công cụ, công nghệ, cảm biến và phần mềm chúng tôi đang phát triển sẽ liên tục được tích hợp để phân tích dữ liệu sức khoẻ đa chiều từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nhiều công nghệ chưa từng được kết hợp cho cùng một cá nhân bao giờ”, đại diện Varily nói.
Varily cũng cam kết tất cả dữ liệu thu thập sẽ được ẩn danh, được mã hóa và được lưu trữ an toàn. Dữ liệu chỉ được cung cấp cho các đối tác nghiên cứu về sức khoẻ con người mà không vì mục đích thương mại.
“Baseline là một cơ hội đáng kinh ngạc để hiểu rõ hơn về cơ chế sinh học của người cũng như quá trình phát triển của bệnh”, Kenneth Mahaffey, một trong các thành viên của dự án hiện đang làm việc tại Đại học Stanford, cho hay.
Tuy nhiên, theo đánh giá của deCODE Genetics, một công ty chuyên nghiên cứu về gen của Iceland, con số 10.000 tình nguyện viên là khá nhỏ so với quy mô của nghiên cứu cũng như tiềm lực của Google.
Đây không phải là chương trình nghiên cứu sức khoẻ quy mô lớn đầu tiên được thực hiện. Trước đó, năm 1948, dự án có tên Framingham Heart Study đã được tiến hành trên 150.000 người sống ở Massachusetts, một tiểu bang của Hoa Kỳ. Kết quả của nghiên cứu được xem là chìa khoá giúp chúng ta hiểu rõ nguy cơ gây đau tim và đột quỵ từ thuốc lá, cholesterol và các yếu tố khác.