Theo TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, thời gian qua, ngành cơ khí Việt Nam đã phát triển với nhiều chuyển biến tích cực, từng bước làm chủ công nghệ, mở rộng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và tỷ lệ nội địa hoá và phát triển thị trường.
Đơn cử, trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, từ trước đến nay, các dây chuyền lắp ráp ô tô, xe máy hầu hết là do các đơn vị nước ngoài đảm nhận, ví dụ những đơn vị như Honda, Toyota, Huyndai,.. nước ngoài đảm nhận. Bắt đầu từ năm 2012, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã cử một đoàn kỹ sư đi học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các đơn vị của Nhật, Hàn Quốc và đến thời điểm này, viện đã tự chủ trong việc thiết kế, chế tạo các dây chuyền lắp ráp ô tô.
“Vừa rồi chúng tôi cũng đã thành công trong việc ứng dụng dây chuyền để sản xuất, lắp ráp ô tô của Vinfast và các dây chuyền lắp ráp đã đưa vào vận hành góp phần cho ra đời một số dòng xe như VF7, VF8, VF3. Đây là một thành công và thể hiện người Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ được những công việc khó mà từ trước tới nay là đặc quyền của các nhà thầu nước ngoài”, ông Phong cho hay.
Theo ông Phong, không chỉ đảm nhiệm được phần việc khó, các doanh nghiệp cơ khí đang dần lấn sâu hơn vào các lĩnh vực mới như lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ thực hiện hệ thống phao nổi và neo cho các dự án điện mặt trời. Hoặc như trong lĩnh vực các nhà máy tự động hóa quá trình sản xuất, vừa rồi, viện cũng ứng dụng cải tiến và lắp ráp toàn bộ hệ thống tự động hóa bao gồm từ khâu sản xuất đến khâu bốc dỡ, vận chuyển hàng cho Công ty CP Bột giặt Lix thuộc Tập đoàn Hóa chất giúp nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất, giảm rủi ro trong quá trình sản xuất và năng suất lao động rất cao.
Dù có những thành công trong một số lĩnh vực nhưng việc đáp ứng thị trường cơ khí trong nước và xuất khẩu vẫn đang còn rất khiêm tốn, đặc biệt là trong lĩnh vực thiết bị toàn bộ (các nhà máy về nhiệt điện, thuỷ điện, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, xi măng hoặc sản xuất nguyên liệu…), chúng ta mới đáp ứng chưa đến 30% giá trị nhu cầu thiết bị.
Doanh nghiệp cơ khí mong có chính sách hỗ trợ về vốn, đất đai và giảm bớt thủ tục hành chính |
“Theo tôi, nguyên nhân chưa đáp ứng được nhiều là do chúng ta chưa có đủ, chưa có nhiều doanh nghiệp “sếu đầu đàn” để sở hữu các công nghệ nguồn, đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án trọn gói. Như trong lĩnh vực đường sắt đô thị hiện nay, hoặc là trong lĩnh vực các nhà máy điện khí, doanh nghiệp chưa có đủ các năng lực để làm tổng thầu hoặc làm trọn gói nên không phát triển được các thiết bị phụ trợ của các dây chuyền thiết bị. Do chúng ta không làm chủ được, phía nước ngoài sẽ đi thuê lại các nhà thầu phụ trong chuỗi của họ hoặc các nhà thầu phụ tại Việt Nam. Vì vậy, chúng ta rất bị động trong phát triển các thiết bị phụ trợ”, ông Phong chia sẻ.
Ông Nguyễn Đức Cường, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội (HANSIBA) cho rằng, trong lĩnh vực gia công chế tạo máy, chúng ta thấy rằng, tỷ trọng doanh nghiệp FDI đang tham gia hoạt động sản xuất tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn. Trong đó, các doanh nghiệp Việt đa phần là sản xuất linh, phụ kiện chi tiết để cung cấp ngược lại cho các doanh nghiệp FDI thuộc ngành điện tử, máy in, máy giặt (như Canon, Samsung, LG,…) hoặc tập trung cung cấp phụ tùng cho các ngành ô tô, xe máy như Honda, Yamaha.
“Theo khảo sát của chúng tôi, các phần sản xuất, gia công, chế tạo tại TP Hà Nội hiện nay cũng không có nhiều. Một số công ty có sản xuất các linh, phụ kiện của mình nhưng là để xuất khẩu”, ông Cường chia sẻ.
Theo đại diện Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội, sự xuất hiện đầu tư của các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, LF, Panasonic, Qualcomm hay một số đơn vị liên quan đến mảng ô tô như Huyndai là những cơ hội rất lớn để doanh nghiệp cơ khí có thể tiếp cận với các đối tác khách hàng từ nước ngoài. Những yêu cầu của những tập đoàn lớn đã giúp doanh nghiệp trong nước biết đến các tiêu chuẩn châu Âu, tiêu chuẩn Mỹ, tiêu chuẩn Nhật để doanh nghiệp hình thành nên những bộ tiêu chuẩn để tuân thủ theo.
“Thông qua việc tiếp cận và làm việc với các tập đoàn lớn, chúng ta sẽ được chuyển giao về công nghệ, học hỏi quy trình quản lý. Đây là một trong những điểm mà tôi đánh giá là rất có giá trị khi mà các tập đoàn lớn đầu tư vào Việt Nam, bên cạnh những đơn hàng”, ông Cường nói. Ông cho rằng, việc ký các các FTA như EVFTA hay CPTPP cũng cần một hoạt động xuyên suốt từ Chính phủ cho đến các đại sứ quán và đặc biệt là các tham tán giữa hai nước, đưa ra những mục tiêu tổ chức các buổi họp mặt giữa hai nước và giữa các doanh nghiệp hai nước để xúc tiến hợp tác cụ thể.
Cùng với đó, đa số các doanh nghiệp hiện tại vẫn phải dựa trên vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính để đầu tư và trong quá trình đó có thể 5 -7 năm mới có thể thu hồi vốn. Nếu có nguồn quỹ đất dành riêng cho doanh nghiệp mà không thu tiền và có nguồn vốn đầu tư cho vay hỗ trợ không lãi suất thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn.
Chia sẻ tại tọa đàm ‘Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí’ do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 9/12, ông Cao Văn Hùng, Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong ngành sản xuất đang được hưởng lợi rất nhiều từ các làn sóng chuyển dịch của các khách hàng mới, do đó nếu không chủ động chớp lấy cơ hội, chắc chắn cơ hội sẽ vụt đi, và rất khó để có lại những cơ hội như vậy.
Để doanh nghiệp phát triển, theo ông Hùng, cần cơ chế hỗ trợ về vốn. Đối với doanh nghiệp đang muốn trở thành những con “sếu đầu đàn”, cần nguồn lực rất lớn về mở rộng quy mô hiện tại cũng như mở rộng thị trường. Doanh nghiệp cũng cần đầu tư vào R&D nghiên cứu, chứ không thể dừng lại ở vấn đề đi gia công cho đối tác nước ngoài.
Các doanh nghiệp cần có những thương hiệu riêng, cần phải có những dòng sản phẩm và thế mạnh riêng để tạo sức bật và tạo ra những doanh nghiệp lớn để kéo những doanh nghiệp nhỏ hơn đi theo. Thì đây cũng cần sự chung tay của các Bộ, ban ngành và Chính phủ để hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp thực sự muốn triển khai những hoạt động như vậy.
“Để các doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục khá nhiều. Tôi cũng mong các chính sách cho doanh nghiệp hiện nay sẽ được đơn giản hoá, hoặc có cơ chế để giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng hơn”, ông Hùng chia sẻ.