Mở đầu bằng cái chết của nhân vật chính, bộ phim dự báo sẽ có độ gay cấn dữ dằn nhất định. Làm theo một cốt truyện có thể coi là quen thuộc (từng được đạo diễn Pháp Robert Bresson dựng 1969) nên diễn biến nội dung không còn là yếu tố thu hút chính.
Đạo diễn cho hay: “Tôi giữ cốt truyện sát với những gì Dostoievsky mô tả hơn những bản chuyển thể trước. Tôi đảm bảo mình đã bao quát nhiều chi tiết từ truyện gốc của nhà văn hơn một số đạo diễn trước.” Do không có gì phá cách trong cốt truyện, cái mà khán giả hướng đến chỉ là lối kể.
Phim bao trùm trong ánh sáng u ám. Ngôi nhà của vợ chồng Thiện- Linh lạnh lẽo với hàng gạch men xanh xỉn lát… tường, cầu thang inox thẳng đuột, sân thượng không lan can. Vì nhân vật chết ngay từ đầu nên nó lập tức trở thành nhà xác lý tưởng. Bối cảnh đối lập là nhà của hai bà cô mà Linh tá túc sau khi bố mẹ qua đời: tuềnh toàng, lộn xộn.
Nếu các xung đột ở đây mang tính chân tay (cô đánh cháu, cháu đánh con cô…) thì ở nhà của Thiện, xung đột diễn ra âm thầm bên trong mỗi người. Và đạo diễn phải cho người xem thấy được xung đột này được đẩy lên đến mức chết người. Hơi tiếc là ở hai hoàn cảnh sống khác nhau, trước và sau hôn nhân, nhưng nhân vật Linh vẫn chẳng thay đổi gì về ngoại hình, đầu tóc hay quần áo. Sự khác biệt về đẳng cấp xã hội giữa hai vợ chồng trong bản Việt hóa chắc chắn ít đất thể hiện so với bối cảnh xã hội Nga thế kỷ XIX của truyện. Coi như đạo diễn bị tước đi một phương tiện để thể hiện sự đối nghịch giữa Thiện và Linh.
Dustin Nguyễn và Thanh Tú trong vai vợ chồng diễn xuất tốt, hợp vai. Hóa trang và diễn xuất của hai bà cô bị đẩy đến mức cường điệu và đơn điệu, lúc nào cũng cùng một kiểu xỉa xói, cứ phải vừa ăn vừa nói để chứng tỏ mình thô lỗ… Một kênh quan trọng thể hiện sự tinh tế trong diễn biến tâm lý là ngôn ngữ, thì Dịu dàng gần như không tận dụng được.
Phim đầy những câu thoại ngô nghê, khó hiểu như thể được dịch bởi Google. Chẳng hạn, Thiện cầu hôn đại thể như sau: “Cô Linh, tôi luôn muốn cô hiểu tôi là một người nghiêm túc và biết lễ giáo. Cô là một cô gái. Tôi hiểu cái sự hy sinh của cô. Về với tôi cô sẽ được ăn uống đàng hoàng. Và sẽ chờ cho tới lúc nào là của nhau. Con người tôi không thể đánh giá qua việc cầm đồ. Tôi có thích nghề đó đâu. Nếu cô thuộc về tôi là một hạnh phúc lớn với tôi. Cô chịu lấy tôi không?”.
Tại bàn ăn, cô vợ chỉ vừa nói về việc tiết kiệm tiền để về quê chơi và bốc mộ cho bố mẹ, đã bị chồng bẻ quặt sang, kiểu: “Cô thì biết gì về tiền bạc mà nói”. Diễn biến đoạn thoại chưa đủ lắt léo để khán giả cảm nhận được nguồn cơn của sự căng thẳng.
Tất nhiên với một phim được xác định theo hướng nghệ thuật để dự các liên hoan ở nước ngoài, thoại có lẽ chẳng là vấn đề, không ảnh hưởng lắm đến khả năng đoạt giải của phim. Chưa kể phụ đề tiếng Anh không sát với thoại. Đơn giản như tính từ “miệng lưỡi” dành cho cô vợ sang tiếng Anh thành “clever” (lanh lợi, thông minh). Bác sĩ nói với chồng nên đưa vợ ra ngoài chơi, gặp gỡ người này người kia thì phụ đề mạnh dạn thêm cả “bãi biển” vào.
Phim nhiều cảnh cụt ngủn, đôi khi đan xen mơ mơ thực thực. Một số cảnh lặp lại để minh họa cho lời nói của nhân vật. Cộng với lời thoại không liền mạch, kiểu “câu được câu mất”. Có ý kiến cho rằng đạo diễn vận dụng thủ pháp dòng ý thức.
Những gì được thấy trên màn ảnh có thể chỉ là hình dung chủ quan, ấn tượng rơi rớt đôi khi méo mó của người trong cuộc. Mà nhân vật của Dostoievsky bao giờ chẳng ở mức cận tâm thần. Cho nên sự khó hiểu mà đạo diễn đem thử thách khán giả chắc chắn là một cố gắng về nghề nghiệp đối với anh.