Cuối năm 2014, chị Trương Hồng Ngọc (ngụ xã Tân Lân) nộp đơn ra TAND huyện Cần Đước, Long An xin ly hôn với anh Lê Anh Hùng (ngụ xã Mỹ Lệ). Chị trình bày, hai người tự tìm hiểu quen biết nhau một thời gian thì được tổ chức cưới vào năm 2007. Cuộc sống vợ chồng những năm đầu phải nói là hạnh phúc, nên có con trai, con gái đủ cả.
Nhưng cũng từ ngày có hai đứa con, anh Hùng hay cáu gắt với chị, thường nhậu nhẹt, và cứ sau mỗi lần nhậu chửi bới chị đủ điều, thậm chí còn đánh đập. Vợ chồng sống ly thân từ đó.
Chị yêu cầu được ly hôn với anh Hùng, muốn tiếp tục nuôi con gái út, còn đứa con trai đầu thì giao anh Hùng nuôi. Theo chị Ngọc, tài sản chung tổng cộng khoảng 58 triệu đồng, trong đó gồm vịt xiêm, thỏ, gà, cây kiểng, chiếc bình gỗ và đồ trang sức vàng của con trai, yêu cầu tòa chia mỗi bên một nửa.
Đáp lại, anh Hùng thì nói chị không tôn trọng anh, thường xúc phạm anh. Hiện anh còn rất yêu chị, nhưng nếu chị cương quyết ly hôn thì anh đồng ý.
Về hai đứa con, anh nhất trí như phương án của vợ. Còn về tài sản, anh yêu cầu tòa phải chia luôn cả nữ trang cưới vì cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng. Theo anh, nữ trang cưới gồm một đôi bông tai một chỉ vàng 9999, một dây chuyền bốn chỉ vàng 9999, một lắc tay ba chỉ vàng 9999 và hai nhẫn cưới một chỉ vàng 18K.
Hiện số vàng này chị Ngọc đang giữ. Cạnh đó, anh đồng ý chia đôi vật nuôi và chiếc lộc bình gỗ. Tuy nhiên các cây kiểng thì anh không đồng ý vì đó là tài sản của gia đình, cha mẹ anh chứ không phải của vợ chồng.
Tại phiên xử sơ thẩm mới đây của TAND huyện Cần Đước, phía chị Ngọc cương quyết không chịu chia số nữ trang cưới bởi cho rằng đây là tài sản riêng của cô dâu được nhà trai cho trong ngày cưới thì bây giờ cũng vậy. Đồng thời, việc chồng nói cây kiểng là tài sản chung của nhà chồng, chị cũng không đồng tình.
Tại tòa, luật sư của chị Ngọc nói: “Theo phong tục tập quán, một trong những thủ tục không thể thiếu trong việc cưới hỏi chính là việc nhà trai tặng sính lễ cho cô dâu. Tuy không bắt buộc nhưng nó gần như đã trở thành lệ trong bất cứ cuộc hôn nhân nào”.
Đi sâu vào phân tích, phía chị Ngọc cho rằng trong ngày đám cưới, gia đình nhà trai đã mang lễ vật, trong đó có nữ trang sang nhà chị và tuyên bố trước mặt hai họ nói là tặng cho cô dâu.
Điều này chứng tỏ khi gia đình anh Hùng trao nữ trang và đeo vào người chị Ngọc là đã chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản này và nó có hiệu lực pháp luật ngay thời điểm chuyển giao.
Theo Điều 168 Bộ luật dân sự, việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao. Về mặt ý chí, gia đình anh Hùng tặng số nữ trang cho chị Ngọc tại thời điểm đó là trên tinh thần tự nguyện giữa bên cho và bên nhận mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện gì khi tặng cho sính lễ.
Vì vậy, số nữ trang sính lễ trên được xem là tài sản riêng của chị Ngọc chứ không phải là tài sản chung của vợ chồng. Theo khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân Gia đình, tài sản riêng của vợ là thuộc sở hữu riêng của vợ.
Phía anh Hùng cương quyết giữ nguyên quan điểm cho rằng nữ trang cưới là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn thì phải chia đôi.
Cuối cùng, tòa xác định hai bên thừa nhận về số nữ trang cưới và đó là tài sản chung nên chị Ngọc phải đưa lại cho chồng 3,5 chỉ vàng 9999 và nửa chỉ vàng 18K. Đồng thời, tòa ghi nhận sự thỏa thuận của đôi bên, giao cho anh Hùng sở hữu 100 con vịt xiêm, 80 con thỏ, bốn con gà và chín lộc bình gỗ.
Ngược lại anh Hùng phải hoàn trả cho chị Ngọc 7 triệu đồng. Về cây kiểng, chị Ngọc thừa nhận trước khi cưới bên chồng đã có một số cây. Nhiều hộ liền kề đều xác nhận nguồn gốc cây kiểng là của cha mẹ chồng quản lý, còn anh Hùng chỉ được giao phụ chăm sóc mà thôi.
Cha mẹ chồng không tặng cây kiểng và anh Hùng, chị Ngọc sống chung trong gia đình chồng nên không thể xem là tài sản riêng của vợ chồng, vì vậy không chia.
Ngay sau khi tòa phán quyết, chị Ngọc đã có đơn kháng cáo yêu cầu xem lại việc chia tài sản vì cho rằng không hợp lý, hợp tình.