Công khai sống chung với người có vợ, Kiều Thanh có bị xử lý hình sự?

Kiều Thanh trong buổi họp báo.
Kiều Thanh trong buổi họp báo.
TPO - Theo quan điểm của luật sư, nếu cơ quan có thẩm quyền xác định việc nữ diễn viên Kiều Thanh vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình thì tùy vào mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc hình sự. 

Mới đây, trong buổi họp báo ra mắt bộ phim truyền hình “Hoa hồng trên ngực trái”, nữ diễn viên Kiều Thanh công khai thừa nhận mình là “Người thứ ba” và bị dư luận phản ứng gay gắt.

Theo đó, khi trả lời phỏng vấn của báo chí về cuộc sống riêng tư tại sự kiện, nữ diễn viên cho biết đến bây giờ mình và chồng vẫn chưa làm đám cưới bởi vì cô là vợ hai. "Anh chị không ly dị, nhưng chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa. Chị ở một nhà, tôi ở một nhà. Anh ở hẳn với tôi chứ không có chuyện chung chồng", Kiều Thanh khẳng định.

Thực ra, Thanh đã từng mặc áo dài in chữ hỉ ra mắt nhà chồng, ra mắt "chị cả" nhưng quy mô hẹp thôi. Người thân trong gia đình đều chứng kiến cả, chỉ có không công bố ra ngoài thôi”, cô nói.

Nếu sự việc đúng như Kiều Thanh chia sẻ thì hiện tại cô đang sống như vợ chồng với người đàn ông đã có gia đình (chưa ly hôn). Hành vi này của diễn viên Kiều Thanh và người chồng là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.

Theo luật sư Trần Tuấn Anh - Giám đốc Cty Luật Minh Bạch: theo thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC: Việc chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. 

Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...

Theo đó, việc nữ điễn viên Kiều Thanh công khai là người thứ ba chung sống với người đã có vợ con là vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình, tùy theo mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự.

Luật sư Tuấn Anh cũng cho biết, về mức xử phạt hành chính được quy định tại Điều 48 "Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng":

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: "Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng."

Hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: "Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ."

Còn nếu hành vi vi phạm bị xử lý hình sự sẽ được quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" quy định: Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm, nếu thuộc một trong hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn. Đây là điều kiện bắt buộc quy định về hậu quả xảy ra từ hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng, cụ thể là dẫn đến ly hôn, tan vỡ gia đình của một bên hoặc cả hai bên. Ly hôn được hiểu là đã ly hôn tại cơ quan Tòa án có thẩm quyền, đã có Quyết định hoặc Bản án có hiệu lực pháp luật về việc chấm dứt mối quan hệ vợ chồng của người có yêu cầu ly hôn.

Trường hợp thứ hai là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Cụ thể, hành vi chung sống như vợ chồng với người khác trước đó đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn tái phạm hành vi chung sống như vợ chồng với người khác thì đủ điều kiện áp dụng Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015.

MỚI - NÓNG