Buông…

Minh họa: Đỗ Phấn
Minh họa: Đỗ Phấn
TP - Sư trồng những gốc mai phía sau nhà, không phải ở vườn trước. Tôi một hôm tìm kiếm chủ đề cho bộ sưu tập ảnh đã lạc vào khu vườn của sư. 

Ngày cuối đông mai chưa hé nụ, tôi ngỡ ngàng run rẩy trước vẻ đẹp kiêu hãnh của những cây mai mới chỉ nhú lộc xanh non tươi mởn. Trong ngôi nhà kia phải là một con người đặc biệt lắm. Thật ra đối với cuộc đời, sư chỉ là người rất bình thường.

Tôi vẫn từng nhắc nhở, hễ có một người lạ đến ngụ cư trong xóm, chớ vội đánh giá bởi sẽ không biết trong ba lô họ đựng gì. Cũng như khi một đứa trẻ ra đời sẽ không thể biết phước đức của nó giữa chiều sâu vũ trụ…

Tôi đã từng đến với một người, cũng xem là nhân duyên song đó là một thứ duyên nợ. Có lẽ tôi nợ họ thuở nào đó lúc cả trái đất này chưa hình thành, nhưng tôi đã không trả hết. Tôi phải bỏ chạy như một con nợ đúng nghĩa để níu lại chút xuân thì trước lúc bị vùi dập tàn nhẫn.

Một vị sư từng dạy, lúc tâm ta tuyệt tĩnh vắng lặng sẽ sực nhớ ra điều xa xưa kể cả tiền kiếp. Tôi nay đang đứng giữa vườn mai trĩu sương, muốn quên tất cả lại sực nhớ một gương mặt mình xóa khỏi tâm thức hồi nào. Là vị sư trẻ quen dịp đầu năm lễ Phật ở ngôi chùa vùng ven thành phố.

Lúc ra về tôi chỉ đinh ninh một câu như đang nói thầm với sư: con không thể hư đâu. Là đệ tử của thầy con không hư đâu! Tôi năng đến chùa nhiều hơn, được nghe Pháp, dạo quanh khuôn viên rộng ngút với nhiều cây bồ đề cao lớn, lòng nhẹ bẫng tưởng như mình vừa trở về quê sau bao năm trời biền biệt giữa vòng xoáy cuộc đời; và vị sư trẻ là người thân duy nhất còn lại (dẫu lần đầu tiên biết mặt). 

Con sẽ không hư đâu thầy. Và để giữ vững lời nguyện đó tôi đã dằn lòng vĩnh biệt ngôi chùa thân yêu, mãi mãi quên vị sư trẻ. Rồi mỗi lần ở nơi xa tưởng đến tia sét đánh vỡ tảng đá, tôi lại rùng mình lăn lộn giữa canh khuya rớm lạnh.

Phải đợi rất lâu, lúc sư xả thiền tôi mới có dịp tiếp kiến. Gật đầu và im lặng, khiến tôi có ý nghĩ sư đang giai đoạn tịnh khẩu. Rồi sư pha trà, đưa tay ra hiệu mời tôi ngồi. Trời đang vào đợt lạnh cuối năm. Sư mở cánh cửa sổ, gió lùa vào từ vườn mai. Chợt nhớ một thiền sư lỗi lạc từng nói về quy luật bình thường lại bỗng khiến tôi giật mình: “Hoa mai nở giữa tiết trời đông giá buốt chứ không phải vào dịp xuân ấm áp”. 

Mùa xuân chỉ thừa hưởng vẻ đẹp từ nỗi đau đớn quặn lòng của mai vàng lúc tiết mật. Đức Phật nhờ bỏ lối tu khổ hạnh theo trung đạo mới triệt ngộ, nhưng nếu ai muốn đắc quả mà khước từ khổ hạnh sẽ chẳng đặt chân ra khỏi tam giới bao giờ. Ngày xưa các vị chân tu vào rừng sâu ẩn trong hang động, ăn lá cây củ quả cầm hơi nhưng tâm họ dần dà không chuyền cành nhảy múa như loài khỉ theo vũ điệu cuồng si nữa. 

Chân tâm bình lặng là nhân duyên khiến chủng tử bồ đề vốn sẵn trong họ nẩy mầm vươn lên giữa trời lồng lộng. Một ngày con dân xuyên sâu vào rừng đã gặp người râu tóc phủ kín, chỉ đôi mắt sáng rực. Tin được truyền về, lập tức những vị cao tăng ở các tự viện lặn lội thỉnh họ về rộng độ quần sanh. 

Cái cảm giác như tôi lần vào một lùm cây hoang đúng lúc gặp tiết xuân, chợt lồ lộ một cây mai vàng lặng lẽ tỏa nỗi buồn tinh khiến. Sững sờ. Một cội mai đài các lại mọc ở chốn hoang vu lau sậy này ư? Tôi cứ đứng đó ngẫm ngợi về sự hào nhoáng phố thị, sự ganh đua danh vị trên đời rốt cuộc vẫn mù tăm giữa bể dâu nhân thế.

Tôi sống giữa thành phố bao nhiêu năm giữa rừng người trong cuộc sinh tồn không kém phần hoang dã. Trở về quê đâu ngờ bao ký ức tưởng đã tàn phai bỗng dày vò bản thể như giữa sông mê không thấy nổi bến bờ. 

Tôi bắt đầu sực nhớ, hồi nhỏ cùng lũ bạn trẻ ranh từng lẻn vào ngôi nhà này hái trộm trái cây và nhặt hoa tương tư rụng đỏ úa trên đất. Ngôi nhà chỉ hai mẹ con nương tựa vào nhau. Người mẹ ngày đêm niệm Phật cầu sanh cực lạc. Người con hiếu thảo nhưng không tin Phật. Lúc anh đi làm, chúng tôi chui vào khu vườn. Bà già nhìn thấy vẫn điềm nhiên ngồi lần tràng hạt. 

Tôi từng bị mẹ dằn mặt nếu còn theo bạn bè vào vườn người ta sẽ mách bố. (Ấy là lúc mẹ lỡ miệng, bởi bố vào Nam làm ăn rồi ở cùng một cô, sinh con. Mẹ chan nước mắt vào cơm từng bữa…). Rồi một hôm, bà già nhờ con trai lên phố mua tấm vải về may áo tràng. Sáng đi, trưa đứng bóng mới về, thấy mẹ ngồi trì niệm hồng danh; anh bắc cơm chín mẹ còn ngồi đó. 

Hơi lạ, anh tới gần xem thì mẹ đã được Phật tiếp dẫn về Tây phương thế giới, khuôn mặt rạng ngời chưa phai nụ cười mãn nguyện. Hình ảnh khiến anh rưng rưng xúc động. Anh quỳ sụp xuống trước ánh đạo vàng. Từ đó đến nay… Người ta vẫn bảo, nếu ai thực tâm tu hành sẽ được chư Phật gia hộ. 

Thiền sư “tam bộ nhất bái” bất kể gió mưa sông núi; lúc đói lả gục xuống bỗng có người ăn mày cứu sống và đó chính là bồ tát hóa hiện… Mẹ tôi bảo người trong làng ngoài xa đến cúng dường, sư chỉ giữ lại gạo muối đủ sống, phần còn lại giúp người nghèo và phóng sanh.

Vẫn biết một vị tu hễ còn dính mắc, đấy chính là sợi xích cột họ với luân hồi sinh tử. Nhìn vườn mai của sư cái ý nghĩ tham sân từng trỗi dậy: sao vườn mai không là của tôi; sao tôi không có một vườn mai như vậy. Và lúc đó tôi tưởng đến cảnh sư cười, đặt tay lên đầu mình mà rằng, con còn trẻ lắm. 

Rồi sư tặng tôi những hạt giống từ chính cây mai ngoài kia, khuyên hãy về trồng, cần mẫn chăm bón. Tôi bất chợt nhớ đến hình ảnh vị sư ngồi thiền như cục bột bên cánh cửa sổ hé mở. Sư đã trồng vườn mai và song hành với công việc của một người làm vườn là ngồi xuống tĩnh tâm. Từ lúc quyết chí tu hành cũng là lúc gieo những hạt mai đen nhánh; lúc cây mai bung nụ ở mùa xuân đầu tiên sẽ kiểm chứng cho bổn tâm có khai hoa hay chìm luôn trong sương lạnh.

Tôi từng liên tưởng giữa một cội hoàng mai trong chậu với cây nhân sâm bên sườn núi. Sâm không thể trồng nơi đất đai màu mỡ luôn được chăm bón tưới tắm lại cho ra biệt dược; hoàng mai cũng không thể với một cuộc sống vương giả mà dâng những đóa phù sinh chái vàng đúng dịp xuân sang.

Cả hai đều từ kham khổ vươn rễ chắt chiu từng giọt nước, từ trong nắng hạn mưa sa, từ nỗi đau quèo quặt của thân và rễ mới chiết ra tinh túy đất trời. Lại ước giờ được đứng bên cội mai của vị sư trẻ tôi quen. Sư đã mang nó trồng trên đỉnh núi, lần ấy tôi được dẫn lên thăm. 

Cây mai không cao, và hình như nó từng bị gió quật gãy, nay mọc ba nhánh như biểu tượng của “tam bảo”; bộ rễ rắn chắc tựa bàn tay quặp chặt vào tảng đá lớn. Tôi ngắm mai còn sư nhìn về xa xôi với đôi mắt thật đẹp. Nhiều lúc tôi vẫn liên tưởng khuôn mặt ấy với một thánh nữ... 

Khoảnh khắc hiếm hoi ấy tưởng sư phải nói khác những lời ở chánh điện trước tôi cùng nhiều Phật tử. Hay sư vẫn dùng chánh pháp để đẩy lùi vọng tưởng đảo điên. “Con người phải hướng nội, biết khước từ hư danh, nhẫn nhục tinh tấn mà siêu phàm nhập thánh. Cây mai này từ lúc gieo hạt đến nay không hề ai tưới một gáo nước vậy mà nó vẫn kiên gan giữa bốn thời xuân hạ…”. Rồi tắt lịm. Sư vội xuống núi còn tôi cảm nhận sự cô đơn trên đỉnh dốc tuyệt mù mây xám.

Một buổi sáng đầu đông, tôi lật tung tấm chăn vùng dậy mở cửa. Gió tràn vào cắt cứa. Trời còn mờ tối, tôi đến nơi thấy ngọn đèn hắt ra ánh sáng mờ. Sư bắt đầu thiền lúc ba giờ sáng (chừng tôi còn trong giấc ngủ sâu), và sau khi xả thiền sư bắc nồi nước lên bếp lửa củi. 

Tôi ngồi bên sư đến lúc sương tan dần trên những chồi mai. Tôi cũng không ngạc nhiên trước thái độ của sư: không hỏi tôi con ai trong làng, không cần biết tên tôi và tại sao tôi có thú thưởng trà? Vị thiền phải chăng như ấm trà đặc, vài ngụm đầu đắng, uống thêm ngọt dần và hạnh phúc lan tỏa. 

Dẫu cõi tu không đơn giản như việc gieo hạt mai, ít năm đã có mùa vàng nghinh xuân. Thoáng nghĩ nếu tôi được hoán đổi vị trí của mình với sư, không chừng bao lâu vườn mai đã sâu đục thân rụi xuống còn tôi thì sầu đục tâm mục ruỗng!

Con người một khi đối diện với cô đơn mới nhận diện vô vàn sợi nhân duyên trói buộc, thấm cảnh mình tự neo chân vào quả địa cầu khổng lồ không thể nào với tay chạm vào cõi thánh. Tôi lao mình vào đám đông như con thiêu thân, chen chân vào những nẻo đường chật cứng người còn đạo lộ thênh thang thì run rẩy lần lữa khước từ. Sợ nắng gió, sợ sương lạnh thấu xương tài rụi trước lúc đơm hoa trả nghĩa. Lại muốn cúi rạp mình bên dáng mai lừng lững trên đỉnh núi mờ xa.

Tuần trà còn đậm, sư nhìn ra vườn mai bảo tôi chọn lấy hai gốc tùy ý. Tôi thật sự ngạc nhiên song không biểu lộ, nghĩ bậc chân tu đến thân chẳng tiếc huống hồ mấy gốc mai. Đã nhiều lần lội trong vườn mai, tôi thuộc từng bộ rễ nhánh lá. Khuôn mặt của gã chuyên bứng cây cảnh trong làng, râu xồm và nụ cười tài tử thoáng qua trí nhớ. Tính vào dịp cuối xuân, mai gượng dậy sau thời khắc cạn lực đơm hoa tôi sẽ nhờ bứng về... 

Đằng khác tôi lại không muốn động đến một gốc mai nào. Tôi không nỡ tách lìa chúng khỏi nơi đã quá thân thuộc. Tôi từng buồn khổ biết bao khi rời ngôi chùa hẻo lánh có vị sư trẻ trụ trì. Hôm nay về quê, mới đến với vị sư già chưa lâu đã không muốn rời khỏi nơi này.

Một khu vườn thênh thang yên tĩnh. Thoáng ước ao mình sẽ ở lại nơi này, có vườn mai tháng ngày chăm bón. Tôi sẽ sáng sáng đun nước sôi và chế trà, tôi sẽ nấu ăn giúp sư, sửa soạn cho sư từng giấc ngủ sâu…

Sáng xuân, tôi đến dự tuần trà với sư, thấy ngôi nhà vắng tanh. Lội vườn sau ra vườn trước, tôi xuống bếp, lòn ra hiên ngó quanh hàng xóm. Chiếc áo tràng sư mặc hàng ngày treo trên móc gỗ, giường vẫn chiếu chăn như ai vừa mới ngủ dậy. Bóng người về đâu? Tự dưng tuyến lệ trào dâng và tôi khóc như một đứa trẻ. Bâng khuâng hụt hẫng. 

Có lẽ tôi vẫn mãi là một đứa trẻ, không hiểu chút gì về phong vị thiền nên biển mê dậy sóng. Sao tôi không nhận ra trong đôi mắt của vị sư luống tuổi ấy một nỗi lo mơ hồ? Mẹ từng nhắc khéo, tôi cứ ậm ừ nói dối những lúc đến ngôi nhà này. Chợt hiểu tại sao ngày xưa thời gian đầu đức Phật không thể nhận những đệ tử như tôi. Thân thể này, chỉ thân thể này đứng yên như cội mai lặng lẽ kia cũng đủ thức dậy những vọng động bản năng trong một kiếp tu hành. 

Tôi muốn chạy một mạch đến với vị sư trẻ thốt lời sám hối. Tôi thực sự bị choáng ở lần đầu tiên gặp sư. Hình ảnh một chàng thanh niên sáng trưng với trái tim đầy nhân hậu khiến tôi rũ bỏ được quá nửa bụi bặm tục trần. Tôi không nghĩ mẫu người lý tưởng như vậy lại chối từ mọi thứ tôi cho là hạnh phúc. Điều gì có ở Đức Phật khiến con người ấy quay lưng với hồng trần? Càng được gần gũi vị sư trẻ tôi càng cảm thấy mình nhơ nhớp; cho đến lúc cái ý nghĩ được quét rác cho chùa cũng khiến mình hổ thẹn tôi đã làm một cuộc chạy trốn khỏi món nợ với một người khác. Nếu không vẫn còn đang ngụp lặn trong bùn lầy, dẫu biết trong tôi vẫn còn mang một món nợ hữu hình khác. “Là đệ tử của thầy con không hư đâu”. 

Vị sư trẻ chắp tay cúi đầu trước tôi. Bao nhiêu năm gặp lại sư vẫn không muốn nhìn thẳng vào khuôn mặt tôi… “Con biết chăng, lúc ta phóng ra một ý nghĩ, đối tượng dẫu không biết song thần thức họ đã tiếp nhận và nó trở thành hạt giống chờ nhân duyên hội đủ sẽ tác vỏ nẩy mầm”. Tôi quặn lòng muốn gieo mình xuống như một cánh mai vàng mỏng mảnh.

Tôi bỗng nhớ một chập tối, mẹ bưng cơm đến cúng dường vị sư già, gặp lúc có bà dì đến thăm nên đã giao cho tôi. (Thực tế mẹ không cho phép tôi đến cúng dường sư bao giờ). Tịnh thất tối om. Nhớ lời vị sư trẻ, tôi vừa niệm Phật vừa đưa tay mò mẫm trong nhà, bất giác chạm phải sư đang tĩnh tọa, giật bắn người…

Ngọn đèn dầu thắp lên, ánh sáng phả vào khuôn mặt sư hồng hào, chao ôi là ấm áp. Có những ước mong tưởng nhỏ bé lại không tài nào với đến. Ví như trước mặt là vị sư trẻ, tôi xới cơm sư ăn và thề sẽ không có một cử chỉ hành động nào khiến sư xao động. Tôi chỉ xin được ngồi bên thôi, như một cái bóng giữa đêm tối mênh mang.

Tôi nhặt bông mai vàng trong vô thức, rồi nhìn trời và cánh hoa rơi khỏi tay lúc nào. Tự an ủi mình bằng hình ảnh Đạt Ma sư tổ nhọc công kiếm tìm một chiếc dép để có cớ ở lại trần gian hóa độ chúng sanh. Còn sư, lẽ nào lại bỏ rơi một sinh linh lầm đường lạc lối là tôi. Ngọn gió xuân nhè nhẹ lùa vào khu vườn cũng đủ khiến mai vàng rụng dày tiếc nuối. 

Tôi nhìn cội mai tưởng đến dáng hình một người thiếu phụ đang thủ tiết chờ ai. Cảm giác lạ lùng trỗi dậy; cái cảm giác thân thuộc đến nao lòng song chẳng thể nhớ lặp lại từ khung cảnh nào. Cũng không muốn nhớ. Dẫu gió buốt sương sa thì mai cũng đã ứa nụ đơm bông dẫu cái đẹp lặng lẽ tỏa hương rồi chìm vào hư vô chăng nữa…

MỚI - NÓNG