BIDV, ADB và NFSC công bố báo cáo thị trường tài chính Việt Nam 2023, triển vọng 2024

0:00 / 0:00
0:00
Sáng ngày 16/4/2024 tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (NFSC) đồng tổ chức Hội thảo tham vấn ý kiến đối với Báo cáo “Thị trường tài chính Việt Nam 2023 và triển vọng 2024”. Báo cáo là sản phẩm phối hợp của ba cơ quan nhằm đánh giá toàn cảnh về thị trường tài chính Việt Nam, bao hàm đầy đủ các lĩnh vực Ngân hàng - Chứng khoán - Bảo hiểm và Quỹ đầu tư.
BIDV, ADB và NFSC công bố báo cáo thị trường tài chính Việt Nam 2023, triển vọng 2024 ảnh 1

TS Cấn Văn Lực trình bày báo cáo tại hội thảo.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Tổng Giám đốc BIDV Trần Phương cho biết: “Trong hai năm 2022 và 2023, BIDV phối hợp với ADB tổ chức Hội thảo Báo cáo "Thị trường tài chính Việt Nam và triển vọng" và đã thu hút sự quan tâm, nhận được sự đánh giá cao của các cơ quan quản lý, các chuyên gia, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, các Hiệp hội, Viện nghiên cứu, giới truyền thông...v.v. Năm nay, BIDV và ADB rất vinh dự khi Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (NFSC) cùng phối hợp thực hiện Báo cáo “Thị trường tài chính Việt Nam 2023 và triển vọng 2024”. Với sự tham vấn, đóng góp của NFSC, chúng tôi tin rằng Báo cáo thực sự là một kênh cung cấp thông tin hữu ích, khách quan, độc lập, khoa học và toàn diện về thị trường tài chính Việt Nam, giúp nhận diện được các cơ hội cũng như thách thức nhằm đưa ra các phương án, giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tài chính Việt Nam một cách an toàn, lành mạnh, hiệu quả và bền vững”.

Hội thảo và Báo cáo tập trung vào 3 nội dung chính:

BIDV, ADB và NFSC công bố báo cáo thị trường tài chính Việt Nam 2023, triển vọng 2024 ảnh 2

Các diễn giả trao đổi và trả lời câu hỏi thảo luận tại hội thảo. Ảnh: PV

Thứ nhất, Đưa ra nhận định về thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024. Năm 2023, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng chậm lại (ước đạt 2,6% từ mức 3% năm 2022), lạm phát giảm nhưng còn cao, sức cầu giảm sút, tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam - vốn phụ thuộc vào cả 3 động lực: xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng - chỉ đạt mức 5,05% năm 2023 (thấp hơn mục tiêu 6-6,5% cũng như mức 8,12% năm 2022), lạm phát được kiểm soát (tăng 3,25%, cách xa mục tiêu 4-4,5%), kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, rủi ro tài khóa ở mức trung bình, tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát, lãi suất điều hành giảm 3 lần (tổng cộng 1,5%) và lãi suất huy động và cho vay giảm khoảng 2-3% so với cuối năm 2022.

Trong bối cảnh đó, Quốc hội, Chính phủ đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, thông qua các đạo luật quan trọng (Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi…) cùng với việc ban hành hàng loạt quyết sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường đất đai, xây dựng, bất động sản, thị trường tín dụng và chứng khoán, du lịch, thúc đẩy đầu tư công, thu hút FDI…v.v. Chính sách tài khóa theo hướng mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm với việc tiếp tục áp dụng các chính sách giãn, hoãn, giảm thuế, phí tương tự như những năm đại dịch Covid-19 bùng phát (2020-2022), chính sách tiền tệ đảo chiều từ thắt chặt, chặt chẽ sang nới lỏng, linh hoạt thông qua việc giảm lãi suất điều hành, cho phép cơ cấu lại nợ, triển khai các gói tín dụng ưu đãi, tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp…v.v.

Thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 phục hồi với các điểm sáng - tối đan xen, những điểm sáng chi phối. Một số kết quả nổi bật đáng ghi nhận là: tín dụng tăng chậm trong 3 quý đầu năm, nhưng phục hồi mạnh trong quý 4/2023 (cả năm tăng 13,78%, thấp hơn mục tiêu 14,5% nhưng là mức cao so với khu vực và phù hợp với nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế). Thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào. Lãi suất giảm, khiến chênh lệch lãi suất VND-USD duy trì ở mức cao, tạo áp lực lên tỷ giá. Mặc dù vậy, với các biện pháp can thiệp kịp thời, linh hoạt, NHNN vẫn giữ được biến động tỷ giá trong tầm kiểm soát (tăng 2,6%), qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính - tiền tệ. Kết quả hoạt động của các định chế tài chính (ĐCTC) phân hóa với lợi nhuận trước thuế của các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng 7,3%, của các công ty chứng khoán tăng trên 45%, trong khi doanh thu phí bảo hiểm giảm gần 9% (nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng mạnh 30-60%, chủ yếu là do lợi nhuận từ đầu tư tài chính và tiết giảm chi phí).

Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán (TTCK) năm 2023 phục hồi với chỉ số VNIndex tăng hơn 12%, giá trị vốn hóa tăng gần 14% so với cuối năm trước, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đạt gần 340 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với 2022, đồng thời, thị trường cũng được lành mạnh hóa dần thông qua xử lý các vụ việc vi phạm...

Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức khi cơ cấu thị trường chưa có nhiều cải thiện, vẫn phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng (chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) trong khi qua kênh thị trường vốn vẫn khiêm tốn (chiếm 12,4%), thanh khoản thị trường cổ phiếu giảm (11,2%). Tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng và bảo hiểm đều thấp hơn nhiều so với năm 2022, nợ xấu gia tăng, trong khi năng lực báo nợ xấu của các TCTD có phần giảm, việc tăng vốn điều lệ của các ĐCTC còn chậm so với yêu cầu. Thể chế cho kinh tế số, kinh tế xanh, các mô hình kinh doanh mới, tài chính xanh… còn chậm ban hành. Rủi ro liên thông giữa thị trường bất động sản với thị trường tài chính còn tiềm ẩn, tuy nhiên trong tầm kiểm soát; cơ cấu lại các TCTD yếu kém còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro công nghệ và an ninh mạng gia tăng, đòi hỏi cần nhận diện và đẩy nhanh hơn, kiểm soát hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo đi ngang hoặc tăng trưởng chậm lại (2,4% so với mức tăng 2,6% năm 2023) dù thương mại và đầu tư dần phục hồi, lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm (3,5-4% từ mức 5,7% năm 2023). Đối với Việt Nam, Nhóm nghiên cứu dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 có thể đạt 6-6,5% (kịch bản cơ sở) với các động lực tăng trưởng phục hồi tốt hơn năm 2023, lạm phát tăng khoảng 3,4-3,8%, trong mục tiêu là 4-4,5%.

Cùng với khu vực kinh tế thực, khu vực tài chính của Việt Nam năm 2024 được dự báo sẽ tích cực hơn. Chính sách tiền tệ được dự báo theo hướng chủ động, linh hoạt, lãi suất duy trì ở mức thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Tỷ giá mặc dù còn chịu áp lực lớn trước khi FED quyết định giảm lãi suất nhưng sẽ hạ nhiệt dần từ cuối quý 2/2024, với mức tăng khoảng 2,5-3% trong năm 2024. Cơ cấu cung ứng vốn của nền kinh tế trong năm 2024 và các năm tiếp theo được kỳ vọng chuyển dịch theo hướng tích cực hơn khi giảm dần tỷ trọng của kênh tín dụng, tăng tỷ trọng qua kênh thị trường vốn và đầu tư tư nhân. Thanh khoản thị trường được kỳ vọng có sự cải thiện tích cực. Tăng trưởng lợi nhuận của các định chế tài chính năm 2024 được dự báo sẽ ở mức cao hơn năm 2023. Khung pháp lý cho thị trường tài chính tiếp tục được hoàn thiện với thay đổi đáng quan tâm nhất là Luật các TCTD sửa đổi chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 và các luật quan trọng khác (Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản,…) có hiệu lực từ đầu năm 2025, với nhiều điểm mới quan trọng. Bên cạnh đó, pháp lý cho TTCK và thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng thúc đẩy thị trường hoạt động an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu nâng hạng TTCK Việt Nam trong năm 2025...v.v.

Mặc dù vậy, thị trường tài chính trong năm 2024 vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như: nợ xấu còn gia tăng trong nửa đầu năm nhưng sẽ giảm dần cùng với đà phục hồi của nền kinh tế, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu nhưng tín dụng đang phục hồi và cả năm có thể tăng 14-15%, thị trường TPDNvà bất động sản phục hồi chậm và cần thời gian để chuyển biến rõ nét hơn. Việc tăng vốn điều lệ của các ĐCTC vẫn là thách thức khi chính sách quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chưa có đột phá. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số và xu hướng tăng trưởng xanh, tài chính xanh đòi hỏi nguồn lực đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực chất lượng cao...

Thứ hai, đánh giá về thực trạng, các cách tiếp cận quản lý Fintech trên thế giới và gợi ý định hướng quản lý Fintech tại Việt Nam. Công nghệ khu vực tài chính (Fintech) trên thế giới cũng như Việt Nam đã và đang phát triển tương đối mạnh mẽ nhưng không đồng đều và có cách hiểu, cách tiếp cận, quản lý rất khác nhau. Đa số cách hiểu hiện nay về Fintech là theo nghĩa hẹp (các công ty Fintech), thay vì hiểu theo nghĩa rộng (Fintech là đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực dịch vụ tài chính). Để quản lý Fintech, kinh nghiệm quốc tế cho thấy có 4 cách tiếp cận chính, đó là: (i) Chờ đợi và quan sát, (ii) Thử nghiệm và học hỏi, (iii) Cơ chế thúc đẩy sáng tạo, và (iv) Cải cách luật pháp. Các cách tiếp cận này đều có ưu và nhược điểm riêng và cần có sự nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để có thể vận dụng phù hợp với mỗi quốc gia.

Tại Việt Nam, Fintech vẫn chủ yếu được hiểu theo nghĩa hẹp và với cách tiếp cận quản lý là “chờ đợi và quan sát”. Thời gian gần đây, Chính phủ và các cơ quan quản lý đã dần chuyển sang cách tiếp cận chủ động hơn để hỗ trợ hoạt động Fintech và quá trình chuyển đổi số của thị trường tài chính. Trong thời gian tới, theo Nhóm nghiên cứu, Việt Nam nên áp dụng dụng cách tiếp cận “thử nghiệm và học hỏi” một cách rộng rãi hơn, tổng thể hơn với Fintech trên toàn thị trường tài chính, chứ không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, việc thành lập một cơ quan đầu mối quản lý (như một ủy ban quản lý - giám sát liên ngành) cũng nên được xem xét để có mô hình quản lý Fintech phù hợp hơn cùng với việc đẩy mạnh giáo dục tài chính và tăng cường quản lý rủi ro CNTT và an ninh mạng.

Thứ ba,tại Hội thảo, các diễn giả, chuyên gia đã đưa ra một số kiến nghị chính sách, tập trung vào 2 vấn đề chính: (i) ổn định và phát triển thị trường tài chính và (ii) quản lý Fintech tại Việt Nam.

Nhóm kiến nghị nhằm ổn định và phát triển thị trường tài chính có thể kể đến bao gồm: đồng bộ phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, trong đó cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN để giảm bớt áp lực nguồn vốn trung - dài hạn cho hệ thống ngân hàng, hiện thực hóa việc nâng hạng TTCK (từ “cận biên” lên “mới nổi”) theo đúng kế hoạch đề ra; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý - giám sát thị trường tài chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện tại cũng như tận dụng xu hướng mới, cơ hội mới trong tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, tài chính xanh và chuyển đổi số, trong đó có Fintech; gia tăng nguồn lực cho các TCTD thông qua cho phép các TCTD có sở hữu Nhà nước được giữ lại cổ tức Nhà nước hàng năm để tăng vốn...

Liên quan đến quản lý Fintech tại Việt Nam, Nhóm Nghiên cứu kiến nghị: Sớm hoàn thiện Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox) cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng và tiến tới mở rộng sang các lĩnh vực tài chính khác như chứng khoán, bảo hiểm, quản lý quỹ; tập trung thúc đẩy hoạt động của các trung tâm đổi mới sáng tạo; cân nhắc thành lập Hiệp hội Fintech tại Việt Nam…v.v.

Hội thảo có sự tham gia của TS. Vũ Nhữ Thăng - Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia;GS.TS. Trần Thọ Đạt - Chủ tịch Hội đồng Khoa học & Đào tạo, Đại học Kinh tế quốc dân; ông Phạm Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam;ông Nguyễn Thế Ngân - Vụ trưởng Vụ Tài chính - tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh; TS. Lê Xuân Nghĩa - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển kinh doanh; PGS.TS. Bùi Quang Tuấn – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc BIDV; TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV; ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam.

MỚI - NÓNG
Tiến độ xét xử các vụ án thuộc diện theo dõi của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC
Tiến độ xét xử các vụ án thuộc diện theo dõi của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC
TPO - Các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) theo dõi, chỉ đạo được Tòa án các cấp tổ chức xét xử nghiêm túc, đúng tiến độ, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Tòa án các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 23 vụ án, đã xét xử 19 vụ án; thụ lý theo thủ tục phúc thẩm 19 vụ án, đã xét xử 9 vụ án và thụ lý theo thủ tục giám đốc thẩm 2 vụ án, đã xét xử 1 vụ án.