> Còn đây 'một gói nhân tình'
> Hấp dẫn Thu Bồn trong mắt bạn bè
Cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn, với một lối viết hoành tráng tuôn trào, luôn luôn gắn liền với số phận đất nước, non sông, bằng một phong cách cuồn cuộn sức sống, cuồn cuộn cảm xúc, không ngừng không nghỉ, kể từ khi xuất hiện cho đến khi mang bệnh về già.
“Thu Bồn bề ngoài có vẻ hùng hổ, ngang tàng, nhưng bên trong ông rất hiền từ, phục thiện, cởi mở và thơm thảo”. |
Tôi thường gọi ông là cây kơ-rắc (cây trắc), một loài cây cho ta thứ gỗ quý hiếm vừa đẹp vừa cứng, mọc trong rừng đại ngàn của Tây Nguyên, đặc biệt cái lõi của nó mang những vân hoa như mây như gió mà cứng như thép mà mềm như lửa. Cá tính của Thu Bồn cũng thế: cũng cứng như thép, cũng mềm như lửa. Ông là một mẫu người được tôi luyện như thép đã tôi, như lõi cây trắc càng chôn xuống đất càng tươi roi rói, không mối mọt nào xông được.
Ở với ông, chơi với ông, “đánh đu” với ông đến rốt ráo, đến tận cùng cuộc chơi, cuộc sống và chiến đấu không mấy người theo được, ngoài nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà phê bình văn học Ngô Thảo. Hai ông, một trước, một sau, đến với Thu Bồn, hay nói đúng hơn, sống với Thu Bồn như thể cuộc đời Thu Bồn được thế.
Thu Bồn bạn bè trăm ngả bốn phương, nhưng không phải vì thế mà ông không có “trọng điểm”. Ông thương yêu nhà thơ Ngô Thế Oanh, nhà văn Thái Bá Lợi, nhà thơ Trần Vũ Mai như là những thằng bạn cùng trang lứa, những thằng em trong cuộc đời. Bao nhiêu cuộc uống “long trời lở đất” ở ngôi nhà số 1B Ba Đình (Đà Nẵng), và cũng từ nơi đây, bao nhiêu bài thơ hay của các nhà thơ một thời chung sống được ra đời.
Tôi đã từng được “xem” anh Thu Bồn sáng tác trường ca “Ba Zan khát” sau chuyến về lại Tây Nguyên, và cũng được “xem” nhà văn Nguyễn Chí Trung đọc, cắt và chỉnh đốn, biên tập cái trường ca đầy những ưu điểm và đầy cả những “khuyết điểm” này. Thu Bồn viết như không thể không viết. Còn Nguyễn Chí Trung đã cắt, như không thể không cắt! Cái sự “viết” và cái sự “cắt” ấy tạo nên vẻ đẹp lộng lẫy của thiên trường ca mà có lần anh Tượng, công vụ của cơ quan, một dũng sĩ giệt Mỹ đã nói đùa với Thu Bồn, tất nhiên là có tôi được nghe rằng: “Ba zan khát” là “Ba Zan cắt”.
Thu Bồn không những không buồn mà ông nói tỉnh queo: “...má! Ổng cắt ngon đó mầy!”. Thế đó. Thu Bồn bề ngoài có vẻ hùng hổ, ngang tàng, nhưng bên trong ông rất hiền từ, phục thiện, cởi mở và thơm thảo. Bản tính ông lúc nào cũng hiếu động, mà hành động của ông tuyền hành động mạnh! Rất ít khi thấy Thu Bồn yên tĩnh.
Ngô Thảo có lần bảo: Khoảng cách giữa hai trận đánh, Thu Bồn làm thơ. Khoảng cách giữa hai đợt tránh bom pháo, Thu Bồn làm thơ. Thu Bồn làm thơ khi đang hành quân, khi đang yêu, khi đang đói, khi đang say và cả khi đang nhọc nhằn nhưng say mê đào đất, khuân đá làm nhà. Thu Bồn làm thơ khi bán xe, bán nhà, tiêu tiền, làm lịch. Thu Bồn làm thơ khi bán lịch. Thu Bồn làm thơ khi làm sách, bán sách, bán thơ. Thu Bồn làm thơ khi lên rừng, xuống biển, về nhà; ở đâu Thu Bồn cũng vui bạn vui bè, hết mình vui chơi, hết mình làm việc với một nguồn cơn: “Con yêu từng hạt bụi đau buồn của Mẹ”, và cả với một ý chí lạ lùng: “Lấy kiên nhẫn làm bữa ăn thầm lặng”.
Thu Bồn là nhà thơ của núi rừng Tây Nguyên, điều ấy không cần phải bàn. Vào những năm đầu thập niên Sáu mươi của thế kỷ trước, ông đã có mặt ở chiến trường này và những bài thơ đầu tiên ông viết cũng về vùng đất này.
Cũng những năm đó, ở ngoài Bắc cuộc sống khá êm đềm và sôi động trong hoà bình, nhưng trong Nam thì cuộc sống của nhân dân chìm ngập trong một không khí đen tối chưa từng có với những đạo luật tố cộng, tìm diệt, giết lầm hơn bỏ sót, đặc biệt trước đó luật Mười Năm Chín đã khiến nhiều cán bộ cách mạng, nhiều phong trào cách mạng ở miền Trung bị đánh bật lên rừng Tây Nguyên.
Thu Bồn chính là một thiếu sinh quân, một chiến sĩ trẻ trung nhưng dạn dày kinh nghiệm sống và chiến đấu trong các phong trào cách mạng của Tây Nguyên thời kỳ đó. Và trường ca “Bài ca chim Chơ Rao” được ra đời cũng quyết liệt và hồn nhiên như chính Thu Bồn có mặt sớm cùng nhân dân.
Đối với Thu Bồn, ông viết như một nhu cầu sống. Trường ca hay thơ trữ tình, tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống. Chính vì thế cảm xúc thơ ông lúc nào cũng tươi. Mọi ý tưởng, mọi ý đồ kết cấu đều được cảm xúc đưa đón, không nề hà câu nệ. Đặc biệt ở trường ca. Ông quan niệm trường ca là một tòa lâu đài thơ, vì vậy người viết trường ca cũng phải là một kiến trúc sư thiết kế nên toà lâu đài đó. Ông lại cho rằng, “vật liệu” làm nên trường ca cũng phải khác các thể loại khác, mặc dù “vật liệu” ấy vẫn là ngôn ngữ.
Cũng như gạch ngói, gỗ đá đều có thể làm nhà, làm lán trại, nhưng gạch ngói đá gỗ làm lâu đài cũng có khác so với gỗ làm trại lán. “Sự khác nhau đó là do tính tất yếu của nội dung công trình khắt khe đòi hỏi chứ không phải do ý muốn của một ai”. Ông nhấn mạnh.
Thu Bồn quan niệm, cảm xúc cũng là một loại “vật liệu” làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nghệ thuật. Nhưng nó là một thứ “vật liệu” đặc biệt, một thứ “vật liệu” chỉ xuất phát từ trái tim nghệ sĩ.
Trong cuộc sống Thu Bồn là một người đa đoan, mẫn cảm. Cái đa đoan mẫn cảm của một trang hiệp sĩ, một chiến sĩ trung thành, một người con hiếu thảo, nhiều khi thấy ông vi vu, lại có lúc thấy ông đơn độc, ông ở đâu cũng có bạn, ông đến đâu cũng quyến rũ được tình cảm của nhiều người bằng sức mạnh của chân tình, của sự nhiệt tâm sôi nổi. Đằng sau những cuộc phiêu lưu là trái tim nặng nợ với đời, là nỗi buồn nhân thế, là tình thương yêu không bến bờ không neo đậu.
Bất kỳ trang viết nào của Thu Bồn chúng ta đều thấy cái nhiệt tâm đến hết lòng ấy của ông. Ông là người không chờ cảm xúc mà cảm xúc luôn luôn chờ ông sẵn để sẵn sàng cùng ông vào cuộc. Ông cùng với trường ca và thơ và chiếc ba lô và bộ quân phục và cây bút và cây súng đi hết chặng đường chống Mỹ thăng trầm của đất nước, cho đến tận bây giờ. Ở chặng đường nào ông cũng có những cái mốc đáng kể, kể cả trường ca và thơ ngắn. Thơ ông rất thời sự và cũng không vì tính thời sự mà thời gian dễ dàng làm lu mờ đi. Riêng đối với Tây Nguyên, cho tới bây giờ, chưa thấy một nhà thơ nào viết được hay và nhiều như ông.
Ông yêu Tây Nguyên từ trong máu lửa, từ trong sống còn của cuộc chiến tranh. Tây Nguyên là một kho báu văn hoá dân gian, đặc biệt là một kho báu khổng lồ trường ca. Đi tới buôn làng nào ta cũng gặp các nghệ nhân hát khan (hát kể) bằng thơ.
Mỗi lần Thu Bồn ra Hà Nội, về số 4 Lý Nam Đế, bên ông bao giờ cũng là rất nhiều bạn bè văn nghệ khác. Ông bao giờ cũng trở thành tâm điểm. Thu Bồn đọc thơ, hát thơ, ngâm thơ hồn nhiên, mạnh mẽ, hết mình. Ông là người luôn luôn sống quanh bạn bè, sống cùng bạn bè. Suốt cả cuộc đời ông là một cuộc hành quân dài từ quê hương đất Quảng đến Tây Nguyên và từ đó đến mọi miền của đất nước và bến đậu cuối cùng là số 4 Lý Nam Đế. Ông ra Bắc vào Nam, lên rừng, xuống biển, nơi đâu cũng rộn rã bạn bè.
Kể cả khi ông tới Tây bán cầu đọc thơ cùng các nhà văn Á Phi, sau những ngày vui nhận giải văn học Lotus, về nước, ông toàn kể chuyện về bạn bè đủ các màu da. Ông đến Ăng Ko hát cùng bè bạn, thánh thần. Và ông làm thơ. Làm thơ và kết bạn. Kết bạn và làm thơ. Cuộc đời của Thu Bồn chính là bản du ca về tình bạn và tình người. Thơ của Thu Bồn hiện đại ngay từ trong cảm xúc.
“...Cô em ngồi vót chông tre/ Vót cả nắng trưa hè ửng hồng lên đôi má” (Tre xanh 1964)
Nếu cứ lần theo những câu thơ hay, những đoạn thơ hay - tính theo thời gian, theo bước chân hành quân oai hùng của người chiến sĩ cách mạng có tên là Hà Đức Trọng, cả những đoạn đời thăng trầm cùng những câu thơ hào sảng và cũng rất trữ tình của nhà thơ Thu Bồn, chắp nối lại, không cần quá cầu kì về kết cấu, tôi dám chắc chúng ta sẽ được một trường ca đặc sắc, một trường ca vừa bi ai hùng tráng, vừa da diết tình người.
“...Cả một thời tuổi trẻ kéo nhau đi/ sấm sét ở lại tìm thi sĩ/ miền đất hứa đau buồn chung thủy/ thơ tuôn trào và núi lửa đang phun”.
Với tình yêu thì ông si tình:
“Em đến rồi em lại đi/ Biến anh thành gã Trương Chi không đàn”.
Ông hiền lành vị tha:
“Cầu trời sóng gió bình yên/ em về xin cứ thiên nhiên mà về”.
Bây giờ Thu Bồn đã mất. Đúng hơn, Thu Bồn đã được yên tĩnh. Hơn sáu mươi năm hiện diện cùng thăng trầm của quê hương, đất nước, bấy nhiêu năm tráng sĩ hề...
dâu bể.
Ông đã về Trời. Mọi tai ương nghiệp chướng cùng những vần thơ đầy khát vọng bình yên của ông, ông để lại cho đời.
Ông là nhà thơ hàng đầu trong số đông đảo các nhà thơ tài danh thời chống Mỹ.
Làm thơ nhóm bếp đỡ đần cho em Với Thu Bồn, vui chơi hay làm việc gì, kể cả viết tiểu thuyết, kể cả việc chẳng ra việc gì, thực ra cuối cùng rồi cũng chỉ để nuôi thơ, mới đầu khởi nguồn từ Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt/Con đã về đây với mẹ - Mẹ quê hương. Rồi đến: xưa kia tráng sĩ hề da ngựa/ ta nay uống cạn mấy rừng mưa Rồi: độc huyền tráng sĩ xưa ca cẩm/ ta ôm xích đạo gãy vòng cung (Hành phương Nam) Thế mà dâu bể cuộc đời có lúc cũng làm cho tráng sĩ mềm lòng, đúng hơn là… não cả lòng: lấy khăn mà gói bơ vơ/ tay cầm nước mắt bao giờ sang sông? (Mong em về trước cơn mưa) Không phải là Thu Bồn, không ai viết được những câu thơ hồn nhiên và chân chất, rộn rã và hiền từ nhưng quyết liệt và táo bạo đến thế. anh về xé một buồng cau/ bắc thang lên hỏi cho mau ông trời/ bay lên vũ trụ anh mời/ những vì tinh tú cùng thời với anh. Mà thực ra chỉ để: rồi xin ở lại cõi trần/ làm thơ nhóm bếp đỡ đần cho em (Ngôi sao lạc loài) Thơ Thu Bồn gắn liền cùng thời đại là thế. Ở thời điểm nào ông cũng có những trường ca hay, những bài thơ hay, những câu thơ cực hay. Thời cơ chế thị trường ông viết mới thật làm sao, mới đáng yêu và giản dị làm sao: mặt trời ngủ em tôi đi/ em không bán lịch lấy gì nuôi thơ? Thêm nữa: nhà tôi thung lũng mù sương/ ai chê cũng đón ai thương cũng mời Thu Bồn là thế. Ông không vuốt ve cuộc đời, không vuốt ve câu thơ, ông không cố tình làm lạ chữ. Tâm hồn Thu Bồn mở rộng đa đoan vậy nên mới có khi nào được bình yên đâu, dù lúc say sưa sung mãn nhất:“Đêm nay mưa ngược lên trời/một cơn động đất giữa lời em xa”. Và ông thật thà thú nhận: “anh yêu em giống con bò đeo chiếc ách/nên trọn đời tiếng rống vẫn còn cong”. Lúc bình tĩnh ông cũng ví von: “Linh hồn của đá là mây/linh hồn của đất là cây xanh rờn/phần con người có cô đơn/phần hoa đẹp có hương thơm không lời”. Và: “Ta cũng là trăng luôn mắc lưới/vớt lên ướt hết nửa cuộc đời/đêm đêm hong gió trên triền núi/gọi nắng mai lên vá lại trời”. Vá lại trời! Đó mới thật là Thu Bồn lắm thay. |