Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ

0:00 / 0:00
0:00
TPO - Âm thanh chói tai vang lên khi những quả đạn pháo nóng đỏ được nhúng vào dầu sôi ở nhà máy đạn dược quân đội Scranton – một trong những cơ sở sản xuất đạn pháo 155mm của quân đội Mỹ.

Richard Hansen, một cựu chiến binh hải quân giám sát cơ sở vũ khí do chính phủ sở hữu, giải thích đây là cách “khóa” các đặc tính hóa học để đảm bảo đạn phát nổ đúng theo tính toán.

Nhà máy Scranton là một phần nền tảng cho nỗ lực của chính quyền Tổng thống Joe Biden nhằm đẩy nhanh việc cung cấp cho Ukraine những vũ khí mà họ cần.

Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 1Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 2Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 3Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 4

Dây chuyền sản xuất đạn dược tại nhà máy Scranton. Ảnh: Washington Post

Kế hoạch tăng quy mô sản xuất đạn pháo trong hai năm tới của Lầu Năm Góc đánh dấu một bước đột phá trong nỗ lực giải quyết cơn khát vũ khí của Ukraine. Nhưng cuộc xung đột đã đặt ra những vấn đề sâu xa mà Mỹ phải vượt qua để sản xuất hiệu quả các loại vũ khí cần thiết, không chỉ để hỗ trợ đồng minh mà còn để tự vệ nếu xung đột nổ ra giữa Mỹ với một cường quốc khác.

Dù tự hào về ngân sách quân sự lớn nhất thế giới - hơn 800 tỷ đô la/năm và ngành công nghiệp quốc phòng hiện đại, nhưng Washington từ lâu đã phải vật lộn để phát triển và sản xuất hiệu quả các loại vũ khí giúp quân đội Mỹ vượt mặt các đối thủ. Những thách thức này càng lớn dần khi xung đột quay trở lại châu Âu và nguy cơ đối đầu giữa Mỹ với các cường quốc gia tăng.

Ngay cả khi sự ủng hộ của công chúng đối với những khoản viện trợ khổng lồ dành cho Ukraine ngày càng giảm dần, thì cuộc xung đột vẫn cho thấy cần thiết phải khắc phục điều mà các nhà lãnh đạo quân sự mô tả là “sự mong manh” của ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ và lên phương án để nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất vũ khí vào thời điểm khủng hoảng.

Nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) thực hiện cho thấy sản lượng hiện tại của các nhà máy Mỹ có thể không đủ để ngăn chặn tình trạng cạn kiệt kho dự trữ các mặt hàng chính mà Mỹ đang cung cấp cho Ukraine. Ngay cả khi tăng tốc độ sản xuất, thì có thể vẫn sẽ mất ít nhất vài năm để phục hồi kho tên lửa chống tăng Javelin, tên lửa đất-đối-không Stinger và các mặt hàng khác.

Nghiên cứu trước đó được thực hiện bởi nhóm chuyên gia cố vấn của Washington cho thấy: Sẽ mất tới 15 năm ở tốc độ sản xuất thời bình và hơn 8 năm ở tốc độ thời chiến để lấp đầy kho dự trữ các hệ thống vũ khí như tên lửa dẫn đường, máy bay có người lái và máy bay không người lái có vũ trang nếu chúng bị phá hủy trên chiến trường hoặc được tặng cho đồng minh.

“Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh”, Thượng nghị sĩ Jack Reed - Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện cho biết trong một cuộc phỏng vấn, đề cập đến các vấn đề sản xuất vũ khí của nước này. “Chúng ta phải xây dựng một nền tảng để có thể phản ứng cực nhanh.”

Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 5Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 6Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 7Xung đột Ukraine làm lộ điểm yếu ngành sản xuất vũ khí Mỹ ảnh 8

Ảnh: Washington Post

Một năm sau khi xung đột bùng phát ở Ukraine, viện trợ quân sự của Mỹ đã lên tới con số đáng kinh ngạc: 30 tỷ đô la. Mỹ tài trợ mọi thứ cho Ukraine, từ kính nhìn ban đêm cho đến xe tăng Abrams. Phần lớn vũ khí được lấy từ kho của Lầu Năm Góc. Các vũ khí khác được sản xuất tại các nhà máy ở Mỹ.

Khi Ukraine bước vào những tháng mùa đông lạnh giá, xung đột ở nước này đã biến thành một cuộc chiến tiêu hao khi các lực lượng Ukraine bắn trung bình 7.700 quả đạn pháo mỗi ngày, vượt xa tốc độ sản xuất của Mỹ trước đó là 14.000 viên đạn 155 mm/tháng.

Trong tám tháng đầu tiên của cuộc xung đột, các lực lượng Ukraine đã khai hỏa số tên lửa phòng không Stinger tương đương sản lượng 13 năm, và số tên lửa Javelin tương đương sản lượng 5 năm, theo Raytheon, công ty sản xuất cả hai loại vũ khí này.

Colin Kahl, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng phụ trách chính sách, nói với các nhà lập pháp vào tuần trước: “Xung đột Ukraine cho thấy ngành công nghiệp quốc phòng của chúng ta đang không ở mức mà chúng ta cần để có thể sản xuất đủ đạn dược. Điều đó sẽ rất quan trọng trong một, hai hay ba năm tới, bởi ngay cả khi xung đột kết thúc, Ukraine vẫn sẽ cần một lực lượng đủ mạnh để bảo vệ các vùng lãnh thổ mà họ đã giành lại.”

Vấn đề không chỉ giới hạn ở đạn dược, bởi theo Mark Cancian, một sĩ quan thủy quân lục chiến đã nghỉ hưu và chuyên gia quốc phòng của CSIS, tốc độ sản xuất tại các nhà máy của Mỹ có nghĩa là sẽ mất hơn 10 năm để thay thế phi đội trực thăng UH-60 Black Hawk và gần 20 năm để thay thế kho dự trữ tên lửa không-đối-không tầm trung tiên tiến. Lầu Năm Góc cũng sẽ mất tối thiểu 44 năm để thay thế hạm đội tàu sân bay của mình.

Các quan chức lưu ý rằng sự chậm trễ trong sản xuất một phần là do thiết bị quân sự ngày nay phức tạp hơn nhiều so với thời Thế chiến thứ hai. Vũ khí hiện đại thường cần vi mạch và các bộ phận từ hàng chục, thậm chí hàng trăm nguồn cung cấp. Chẳng hạn, máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của Lockheed Martin chứa 300.000 bộ phận đến từ 1.700 nhà cung cấp.

Ở châu Âu, vấn đề cũng nghiêm trọng không kém. Tổng thư ký Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Jens Stoltenberg cảnh báo vào tháng 2 rằng thời gian chờ đợi vũ khí cỡ nòng lớn đã tăng hơn gấp ba lần, có nghĩa là các mặt hàng được đặt hàng bây giờ sẽ không được giao trong ít nhất hơn hai năm tới. Tại Đức, nguồn cung cấp đạn dược của nước này được cho là chỉ đủ dùng trong hai ngày nếu xung đột bùng phát. Con số này của Anh là tám ngày.

Để giải quyết vấn đề đó, các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu đang tìm cách để tăng tốc sản xuất, có thể bằng việc sử dụng các thỏa thuận “mua trước” tương tự cuộc chạy đua phát triển vắc-xin COVID-19.

Tại Mỹ, quân đội hiện có kế hoạch tăng công suất sản xuất đạn pháo 155 mm từ khoảng 14.000 viên đạn/tháng lên 30.000 vào mùa xuân năm nay, và cuối cùng là 90.000.

Quân đội mới đây cũng đã ký hợp đồng trị giá 1,2 tỷ đô la với Raytheon để chế tạo thêm sáu hệ thống phòng không đất-đối-không tiên tiến, đang được sử dụng ở Ukraine để chống lại các cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái của Nga, nhưng chúng sẽ chưa thể xuất xưởng trong khoảng hai năm nữa.

Không rõ nhà máy Scranton, vốn đã hoạt động 24/7 trong tuần cùng với làm thêm giờ cuối tuần, có thể mở rộng sản lượng sản xuất của mình đến mức nào. Các quan chức của nhà máy cho biết tốc độ sản xuất không tăng lên kể từ khi xung đột Ukraine bắt đầu và họ không biết về kế hoạch tăng cường hoạt động.

Trong khi sự ủng hộ dành cho chi tiêu quốc phòng ở Đồi Capitol vẫn khá mạnh mẽ, thì sự ủng hộ cho việc viện trợ Ukraine đã sụt giảm, đặc biệt là giữa các thành viên đảng Cộng hòa. Một cuộc thăm dò gần đây cho thấy 40% thành viên đảng viên Cộng hòa tin rằng Mỹ đang viện trợ quá nhiều cho Ukraine, tăng từ 9% vào mùa xuân năm ngoái.

Tại một phiên điều trần gần đây, Hạ nghị sĩ Lisa C. McClain nói với các quan chức Lầu Năm Góc rằng cử tri của bà lo lắng về việc sa lầy vào “cuộc chiến không hồi kết” ở Ukraine. Bà nói: “Họ tin rằng chúng ta đang chi tiền và nguồn lực cho một cuộc chiến ở nước ngoài, thay vì sắp xếp lại nền kinh tế của chính chúng ta.”

Theo Washington Post
MỚI - NÓNG