Nhân viên điện lực tuyên truyền tiết kiệm điện đến các hộ gia đình. Ảnh: Nguyễn Bằng |
Hộ gia đình dùng trên 401 kWh trả thêm tối đa 55.600 đồng/tháng
Theo ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng giám đốc EVN, Bộ trưởng Công Thương ngày 8/11 đã ký Quyết định 2941 cho phép điều chỉnh giá bán lẻ điện áp dụng từ ngày 9/11. Với lần tăng giá điện này, cộng với mức tăng giá hơn 55,9 đồng/kWh (tăng 3%) của ngày 4/5/2023, giá điện bán lẻ đã tăng thêm hơn 142,3 đồng/kWh từ đầu năm.
Trả lời PV Tiền Phong về tác động của việc điều chỉnh giá điện lần này đến các nhóm khách hàng, ông Nguyễn Quốc Dũng, Trưởng ban Kinh doanh EVN cho biết, cùng với các khách hàng sinh hoạt, mức giá bán lẻ điện mới áp dụng cho các ngành sản xuất cũng có sự điều chỉnh. Cụ thể, giá bán lẻ điện cho cấp điện áp 11kV giờ bình thường là 1.649 đồng/kWh. Mức giá áp dụng cho giờ thấp điểm là 1.044 đồng/kWh, giá cho giờ cao điểm 2.973 đồng/kWh.
Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Trần Việt Hoà, Cục trưởng Điều tiết Điện lực - Bộ Công Thương cho biết, mức điều chỉnh giá điện lần này tác động rất ít đến CPI do vẫn chưa bao gồm các khoản chênh lệch tỷ giá hơn 14.000 tỷ đồng của các năm trước đây. Toàn bộ các khoản chênh lệch tỷ giá này vẫn đang được treo lại vì nếu tính vào giá điện sẽ khiến giá tăng rất mạnh. “Tăng giá điện sẽ ảnh hưởng đến các ngành sản xuất, giá nguyên liệu đầu vào. Ước tính tăng giá điện sẽ làm tăng chỉ số CPI ở mức 0,035%”, ông Hoà cho hay.
Giá bán lẻ điện cho kinh doanh áp dụng cho cấp điện áp 22kV trở lên giờ bình thường là 2.830 đồng/kWh. Mức giá giờ thấp điểm và cao điểm áp dụng lần lượt 1.666 đồng/kWh và 4.736 đồng/kWh.
Theo quyết định này, mức giá bán lẻ điện sinh hoạt áp dụng cho 6 bậc cũng thay đổi. Cụ thể: Bậc 1, cho kWh từ 0 - 50 là 1.806 đồng/kWh; Bậc 2, cho kWh từ 51 - 100 là 1.866 đồng/kWh; Bậc 3, cho kWh từ 101 - 200 là 2.167 đồng/kWh; Bậc 4, cho kWh từ 201 - 300 là 2.729 đồng/kWh; Bậc 5, cho kWh từ 301 - 400 là 3.050 đồng/kWh; Bậc 6, cho kWh từ 401 trở lên là 3.151 đồng/kWh.
Tác động của tăng giá điện với hộ gia đình mỗi tháng. |
Theo ông Dũng, với việc tăng giá điện, các khách hàng dùng điện ở bậc 1 (chiếm 11,4% số khách hàng sử dụng điện) sẽ phải trả tối đa thêm 3.900 đồng/tháng. Khách hàng dùng điện ở bậc 2 (chiếm 15,15% số khách hàng) sẽ phải trả tối đa thêm 7.900 đồng/tháng. Số khách hàng bậc 3 (chiếm 34,08%), tối đa trả thêm tiền điện 17.200 đồng/tháng. Số khách hàng bậc 4 (chiếm 18,64%), tối đa trả thêm 28.900 đồng/tháng. Số khách hàng bậc 5 (chiếm 34,08% số khách hàng), tối đa trả thêm tiền điện là 28.900 đồng/tháng. Số khách hàng bậc 6, tiền tối đa trả thêm 55.600 đồng/tháng.
Ông Dũng cho biết, với các khách hàng kinh doanh, dịch vụ, tiền điện cũng sẽ tăng nhưng phụ thuộc thói quen sử dụng điện và thời gian sử dụng điện. Theo tính toán, với khách hàng kinh doanh dịch vụ (547.000 khách hàng), sau khi thay đổi giá, trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 230.000 đồng/tháng. Khách hàng sản xuất (hơn 1,9 triệu khách hàng), trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 432.000 đồng/tháng. Với khách hàng hành chính sự nghiệp (có 681 nghìn khách hàng), trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 90.000 đồng/tháng.
Tháng 8 vừa qua, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có báo cáo gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của các doanh nghiệp do cơ quan này làm đại diện chủ sở hữu. Theo báo cáo, số lỗ 6 tháng đầu năm 2023 của EVN là hơn 35.400 tỷ đồng. Còn tính đến hết 8 tháng, số lỗ của EVN dự kiến lên tới hơn 28.700 tỷ đồng. Nếu tính chung số lỗ 26.500 tỷ đồng của năm 2022 (chưa bao gồm các khoản chênh lệch tỷ giá) và 8 tháng của năm 2023, công ty mẹ EVN lỗ tổng cộng trên 55.000 tỷ đồng.
EVN thu thêm hơn 3.200 tỷ đồng nhờ tăng giá điện
Về việc giá điện được điều chỉnh tăng 4,5% từ ngày 9/11, đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, từ nay đến cuối năm 2023, việc tăng giá điện thêm 86,41 đồng/kWh sẽ giúp tập đoàn có thêm hơn 3.200 tỷ đồng.
Về việc tăng giá điện, ông Nguyễn Đình Phước, Kế toán trưởng EVN cho biết, việc điều chỉnh giá điện thực hiện theo Quyết định 24 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2023 có một số thông số đầu vào ảnh hưởng đến chi phí của EVN. Theo đó, sản lượng thủy điện giảm gần 17 tỷ kWh do hạn hán và El Nino kéo dài. Giá nhiên liệu cũng duy trì ở mức rất cao. Cụ thể, giá than năm 2023 tăng 29%-46% so với mức áp dụng năm 2021. Giá dầu cũng tăng khoảng 18% so với năm 2021. Đặc biệt tỷ giá ngoại tệ tăng mạnh gần 4% đến thời điểm hiện nay và ảnh hưởng lớn đến chi phí đầu vào của EVN. “Tập đoàn đã báo cáo các bộ, ban ngành, đánh giá tác động của CPI và xin ý kiến Chính phủ cho điều chỉnh giá điện”, ông Phước cho hay.
EVN không còn độc quyền về nguồn điện
Cục Điều tiết Điện lực (Bộ Công Thương) cho biết, cơ cấu nguồn điện Việt Nam đã có sự thay đổi lớn khi EVN chỉ còn nắm giữ khoảng 37% nguồn điện (bao gồm trực tiếp và gián tiếp).
Theo Cục Điều tiết Điện lực, Việt Nam có gần 80.000 MW nguồn điện toàn hệ thống (theo công suất đặt) năm 2023 và đang đứng đầu ASEAN. Hiện tỷ lệ sở hữu, trực tiếp quản lý nguồn điện của các doanh nghiệp năng lượng nhà nước gồm Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV) hiện chỉ nắm giữ khoảng 47% công suất đặt. Trong đó, EVN chỉ còn nắm giữ trực tiếp và gián tiếp là 37% (10% trực tiếp và 27% gián tiếp qua các Tổng công ty phát điện); TKV chiếm 2% chủ yếu là nhiệt điện, PVN chiếm 8% chủ yếu là điện khí và thuỷ điện nhỏ. Số còn lại thuộc các nhà đầu tư tư nhân chiếm 42% và các dự án BOT chiếm khoảng 10%, nguồn điện nhập khẩu và nguồn khác chiếm khoảng 1%.
Tính đến cuối năm 2022, công suất điện than tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 33% (25.820 MW); Thủy điện chiếm 28% (22.349 MW); Năng lượng tái tạo (không gồm thủy điện) chiếm 26% (20.670 MW); Điện khí chiếm 11% (8.977 MW); còn lại là các nguồn khác.
Theo ông Nguyễn Quốc Dũng, Trưởng ban Kinh doanh EVN, về cơ bản, việc điều chỉnh giá điện lần này sẽ bảo đảm các hộ nghèo, các gia đình chính sách bị ảnh hưởng ở mức không đáng kể. Theo số liệu thống kê, năm 2022 cả nước có trên 1,27 triệu hộ nghèo, hộ chính sách xã hội được hỗ trợ tiền điện theo chủ trương của Chính phủ. Các hộ nghèo, hộ chính sách xã hội tiếp tục được hỗ trợ theo quy định tại Quyết định số 28 với mức hỗ trợ hàng tháng tương đương số lượng điện sử dụng 30kWh/hộ/tháng. Hộ chính sách xã hội có lượng điện sử dụng không quá 50 kWh/tháng được hỗ trợ với mức hỗ trợ hàng tháng tương đương số lượng điện sử dụng 30kWh/hộ/tháng.