Quy định ba nhóm đối tượng cảnh vệ
Luật Cảnh vệ được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2018. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, quá trình triển khai thi hành Luật Cảnh vệ năm 2017 đã xuất hiện một số vướng mắc, bất cập cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung.
Về đối tượng cảnh vệ, theo Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quốc Hùng, pháp luật hiện hành quy định ba nhóm đối tượng cảnh vệ: Nhóm đối tượng cảnh vệ là con người; nhóm đối tượng cảnh vệ là khu vực trọng yếu và nhóm đối tượng cảnh vệ là các sự kiện đặc biệt quan trọng.
Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quốc Hùng. |
Cụ thể, đối tượng cảnh vệ là con người bao gồm: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; khách quốc tế có tiêu chuẩn tương đương.
Tuy nhiên, qua tổng kết 5 năm thực hiện Luật Cảnh vệ và tình hình thực tiễn hiện nay cần thiết bổ sung đối tượng cảnh vệ là Thường trực Ban Bí thư, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chính phủ lý giải, Thường trực Ban Bí thư là người phụ trách, chủ trì công việc hằng ngày của Ban Bí thư, giữ vai trò, vị trí quan trọng trong tổ chức của Đảng, Nhà nước.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là người đứng đầu các cơ quan tư pháp, có vai trò, tác động đối với công tác xét xử, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế, quyền con người, quyền công dân, đã được xác định là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước theo Kết luận của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
“Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải áp dụng chế độ, biện pháp cảnh vệ với các đối tượng trên để bảo đảm tương đồng, thống nhất với các lãnh đạo chủ chốt, cấp cao khác trong cùng nhóm”, ông Hùng nêu.
Cơ quan thẩm tra, Ủy ban Quốc phòng và An ninh đồng tình với đề xuất bổ sung này của cơ quan chủ trì soạn thảo.
Cụ thể hóa quyền hạn của lực lượng cảnh vệ
Về biện pháp, chế độ cảnh vệ, theo ông Hùng, Điều 11 và Điều 12, Luật Cảnh vệ không tách biệt giữa biện pháp cảnh vệ và chế độ cảnh vệ dẫn đến không xác định được đâu là chế độ mà đối tượng cảnh vệ được hưởng, đâu là biện pháp cảnh vệ mà lực lượng cảnh vệ phải thực hiện.
Một số biện pháp, chế độ cảnh vệ hiện nay lực lượng cảnh vệ đang triển khai thực hiện nhưng chưa được quy định trong luật để đảm bảo áp dụng thống nhất; trong khi đó việc áp dụng các biện pháp cảnh vệ có thể hạn chế quyền con người, quyền công dân trong một số trường hợp nhất định và theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 phải do luật định.
Do vậy, nội dung này cần thiết được đưa vào Luật Cảnh vệ, tạo hành lang pháp lý để triển khai hiệu quả công tác cảnh vệ.
Thứ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh, thực tiễn ở Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cho thấy, công tác cảnh vệ là một nội dung quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần vào việc bảo đảm các điều kiện cho sự ổn định vững mạnh chế độ, chính trị, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia.
Vì vậy, công tác cảnh vệ đều được các quốc gia dành sự quan tâm đặc biệt, mà trước hết là tạo dựng cơ sở pháp lý đủ mạnh để tổ chức, tiến hành công tác cảnh vệ một cách hiệu quả.
Để triển khai thực hiện hiệu quả công tác cảnh vệ, lực lượng cảnh vệ phát hành thẻ, phù hiệu để phục vụ công tác, đây là một trong những biện pháp được lực lượng cảnh vệ chủ trì thực hiện hiệu quả trong triển khai công tác bảo vệ cả trong nước và nước ngoài.
Đặc biệt, khi triển khai bảo vệ đối tượng cảnh vệ tại địa bàn nước ngoài, đối với những quốc gia không cùng thể chế chính trị hoặc do pháp luật của nước sở tại quy định chế độ, biện pháp cảnh vệ chưa có sự tương đồng với pháp luật Việt Nam (Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội không áp dụng biện pháp, chế độ cảnh vệ như nguyên thủ quốc gia), lực lượng cảnh vệ phải thuê lực lượng, phương tiện để đảm bảo an ninh, an toàn đối tượng cảnh vệ.
Do vậy, cần cụ thể hóa quyền hạn của lực lượng cảnh vệ để thuận lợi trong thực hiện công tác cảnh vệ, như: Thủ trưởng cơ quan Cảnh vệ của Bộ Công an, Thủ trưởng cơ quan cảnh vệ của Bộ Quốc Phòng quyết định phát hành thẻ, phù hiệu phục vụ công tác cảnh vệ.
Trong trường hợp đã sử dụng tất cả các nguồn nhân lực và phương tiện thiết bị mang theo mà không đáp ứng được công tác cảnh vệ, Thủ trưởng cơ quan Cảnh vệ của Bộ Công an, Thủ trưởng cơ quan cảnh vệ của Bộ Quốc phòng quyết định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để bảo vệ đối tượng cảnh vệ.