Những “thông tin mới lạ” về Trần Đức Hòa
Từ lâu, sử sách triều Nguyễn (trong đó có Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam Nhất thống chí) và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn (Bình Định) đều cho biết Trần Đức Hòa là người ở xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, nay là thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, Thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông được chúa Nguyễn phong giữ chức Khám lý phủ Quy Nhơn, tước Cống Quận công. Năm Đinh Mão (1627), Trần Đức Hòa tiến cử Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phước Nguyên…
Thế nhưng, sau năm 1975, trên một số diễn đàn báo chí, xuất bản sách và hội nghị, hội thảo đã xuất hiện “những thông tin mới” về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa, với những chức tước và công trạng “mới lạ”, như Tuần phủ Quy Nhơn, Trấn thủ Quy Nhơn, Tri phủ Quy Nhơn, Quan trấn tỉnh Quy Nhơn, “bà đỡ” khai sinh chữ Quốc ngữ…
Tiêu biểu trong số các tác giả đưa “thông tin mới lạ” về Khám lý Trần Đức Hòa có các vị: PGS-TS Đỗ Bang (Đại học Khoa học Huế), Linh mục Võ Đình Đệ (Tòa giám mục Quy Nhơn), Nguyễn Thanh Quang (cán bộ Sở Văn hóa – Thể thao Bình Định), cùng 2 nhà sử học tên tuổi - GS Phan Huy Lê, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử (KHLS) Việt Nam, Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội KHLS Việt Nam)…
Khu lưu niệm Khám lý - Cống quận công Trần Đức Hòa tại quê nhà Bồng Sơn – Hoài Nhơn, Bình Định. |
Một trong những tác giả đầu tiên đưa “thông tin mới lạ” về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa là PGS-TS Đỗ Bang. Theo đó, với tư cách Chủ biên tập Địa chí Bình Định (tập Lịch sử) (NXB Đà Nẵng – 2006) và là người biên soạn chương II, PGS-TS Đỗ Bang đã giới thiệu những “thông tin mới lạ” về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa.
Cụ thể, tác giả Đỗ Bang viết: “Năm 1618, Khám lý Trần Đức Hòa mời giáo sĩ Borri đến lập giáo xứ ở phố Nước Mặn để truyền đạo và cho xây dựng một ngôi nhà thờ bằng gỗ khá tiện nghi tại thành phố Nước Mặn. Tháng 7 năm 1618, các giáo sĩ khác như Buzomi, Pina, Augustin cũng được Trần Đức Hòa mời từ Hội An vào Nước Mặn để truyền giáo. Các giáo sĩ cho biết Quan trấn thủ cho xây một ngôi nhà bằng gỗ rộng rãi ở Nước Mặn”(SĐD, trang 67).
Địa chí Bình Định (tập Lịch sử) do PGS-TS Đỗ Bang chủ biên. Ảnh: Viết Hiền. |
Tác giả thứ 2 giới thiệu “thông tin mới lạ” về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa là Linh mục Võ Đình Đệ. Theo đó, năm 2016, với bài viết: “Vai trò các Thừa sai Dòng Tên trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ tại Nước Mặn, Bình Định” (đăng trong tập sách Bình Định với chữ quốc ngữ - NXB Tổng hợp TPHCM), linh mục Võ Đình Đệ khẳng định: “Việc khởi đầu sáng tạo chữ quốc ngữ là sáng kiến của các thừa sai Dòng Tên phát xuất từ việc truyền giáo cho người Việt. Công cuộc khởi đầu ấy là công việc được đóng góp từ công sức của nhiều người, trong đó thành phần chủ chốt đầu tiên là số thừa sai Dòng Tên làm việc tại cư sở Nước Mặn… Ngoài ra phải kể đến sự tham gia và đóng góp của những người Việt Nam mà người đầu tiên phải kể đến là ông Trần Đức Hòa, quan phủ Quy Nhơn” - (Trang 382, SĐD).
Tương tự PGS-TS Đỗ Bang và linh mục Võ Đình Đệ, qua tập sách Một số vấn đề về chữ quốc ngữ (NXB Khoa học - Xã hội và tạp chí Xưa & Nay – 2020), tác giả Nguyễn Thanh Quang cho biết: “Trần Đức Hòa là Tuần phủ khám lý phủ Quy Nhơn (có đoạn tác giả viết là quan trấn thủ Quy Nhơn – Khám lý Trần Đức Hòa)… Do vậy, sẽ không công bằng khi nói về công lao của các nhà truyền giáo sáng tạo ra chữ quốc ngữ tại cư sở Nước Mặn mà không ghi nhớ sự giúp đỡ của văn nhân trẻ tuổi… Đặc biệt là sự đóng góp mang tính quyết định của quan trấn thủ Quy Nhơn – Trần Đức Hòa” - (Trang 179-189, SĐD).
Đáng lưu ý, những “thông tin mới lạ” về Khám lý Trần Đức Hòa cũng được 2 nhà sử học Phan Huy Lê và Dương Trung Quốc giới thiệu.
Theo đó, qua tập sách “Chữ quốc ngữ - Từ Nước Mặn đến Làng Sông” (NXB Đồng Nai – 2016), nhà sử học Phan Huy Lê cho biết: “Chữ Quốc ngữ xuất hiện sớm ở Nước Mặn thuộc phủ Quy Nhơn, còn nhờ có vai trò của Khám lý (như Trấn thủ) Trần Đức Hòa. Điều này được miêu tả rất cụ thể trong sách của Borri. Theo Borri, chính Trần Đức Hòa đã đưa đón Borri cùng Buzomi, Pina từ Hội An vào Quy Nhơn rồi về lưu trú tại Nước Mặn”. (Trang 22, SĐD).
Còn đối với nhà sử học Dương Trung Quốc, khi giới thiệu về tập sách Một số vấn đề về chữ Quốc ngữ, ông đã khẳng định: “Đặc biệt, trong hành trình chữ viết của tiếng Việt, từ chữ Nôm đến chữ viết theo mẫu tự Latin (chữ Quốc ngữ), có sự đóng góp không nhỏ của đất và người Bình Định… Đó là việc quan Trấn thủ Qui Nhơn -Trần Đức Hòa, các văn nhân tại Nước Mặn” - (Trang 6, SĐD).
Trong sách này đã có sự nhầm lẫn giữa chức vụ Khám lý với Trấn thủ. Ảnh: Viết Hiền. |
Một số cuốn sách, tài liệu có sự nhầm lẫn về Khám lý Trần Đức Hòa. |
Tuy nhiên, khi đọc lại Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631, chúng tôi không hề thấy Cristophoro Borri ghi danh Khám lý – Cống quận công Trần Đức Hòa. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy hình ảnh “chân dung”, cũng như tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của quan Trấn thủ Quy Nhơn mà Cristophoro Borri miêu tả có nhiều điểm khác lạ so với “chân dung”, thân thế, sự nghiệp của ngài Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa ở Bồng Sơn…
Cuốn sách này của Cristophoro Borri đề cập đến một Trần Đức Hòa khác. |
Theo đó, như đã đề cập ở trên, từ lâu, sử sách triều Nguyễn và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn (Bình Định) đều ghi nhận Trần Đức Hòa được chúa Nguyễn phong giữ chức Khám lý phủ Quy Nhơn, tước Cống Quận công và chưa bao giờ ông giữ các chức vụ Trấn thủ (hay Tuần phủ, Tri phủ) Quy Nhơn…
Nhân đây, xin được lưu ý: Trấn thủ và Khám lý là 2 chức vụ khác nhau. Theo lý giải của sách Từ điển chức quan Việt Nam (NXB Thanh Niên, Trung tâm Khoa học – Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Sử học), thì Trấn thủ là chức quan đứng đầu các trấn đầu thời Nguyễn khi chưa thành lập tỉnh, còn Khám lý là chức quan do các chúa Nguyễn đặt ra ở các phủ từ Quảng Nam trở vào. Chức Khám lý là làm phó cho các Chánh hộ thu thuế. Như vậy, chức Khám lý không hề đồng nhất với chức Trấn thủ hay Tuần phủ, Tri phủ.
Về quê quán, như đã đề cập, Khám lý – Công Quận công Trần Đức Hòa là người ở xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, nay là thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, Thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Trong khi đó, theo Borri thì quê của quan Trấn thủ Quy Nhơn là ở Chifù – Nước Mặn.
Cụ thể, trong Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631, Borri viết: “Tám ngày trôi qua, thi hài quan Trấn thủ được đặt trong một áo quan bằng bạc, mạ vàng, có lọng che, di chuyển tới thành phố Chifù - nơi ông sinh ra, cách đó ba ngày đường, theo sau là đoàn người đủ mọi tầng lớp và các tốp nhảy múa ca hát…”. Theo các chuyên gia, Chifù tiếng Ý đọc là Ky Su (có thể là địa danh Kỳ Sơn – Tuy Phước.
Theo sử sách triều Nguyễn và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn (Bình Định) thì Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa có người con gái (tên là Trần Thị Chế) quê ở Bồ Đề - Bồng Sơn, gả cho Đào Duy Từ. Tuy nhiên, theo Cristophoro Borri và các giáo sĩ, linh mục thì người con gái của quan Trấn thủ Quy Nhơn quê ở Nước Mặn, có chồng là Sứ thần triều Nguyễn, từng đi sứ Cao Miên. Đáng lưu ý, cả con gái và con rể quan Trấn thủ Qui Nhơn đều theo đạo Công giáo, trong đó con gái quan Trấn thủ có tên thánh là Orsola (Ursula), còn con rể có tên thánh là I-Nha-xu (Ignatio).
Cũng theo sử sách triều Nguyễn và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn (Bình Định) thì Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa có người con trai tên là Trần Đức Nghi, làm quan đến chức Phó Đề đốc phủ Quy Ninh (sau đổi là phủ Quy Nhơn). Tuy nhiên, theo Cristophoro Borri và các giáo sĩ, linh mục thì người con của quan Trấn thủ Quy Nhơn từng giữ chức Đề Lĩnh. Sau khi quan Trấn thủ Quy Nhơn qua đời (năm 1619) thì được chúa Nguyễn cử giữ chức Phó Trấn thủ Quy Nhơn và sau 3 năm thì được thay cha giữ chức Trấn thủ Qui Nhơn.
Đặc biệt, theo sử sách triều Nguyễn và gia phả họ Trần Đức ở Hoài Nhơn, năm 1627, Khám lý Trần Đức Hòa đã tiến cử Đào Duy Từ với Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Tuy nhiên, qua Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631, Cristophoro Borri cho biết Quan Trấn thủ Quy Nhơn qua đời vào năm 1619. Như vậy, nếu đúng Quan Trấn thủ Quy Nhơn là Khám lý Trần Đức Hòa thì chẳng lẽ ông còn sống đến năm 1627 để tiến cử Đào Duy Từ với Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên?
Những nhầm lẫn, ngộ nhận lịch sử cần được cải chính
Qua những vấn đề trình bày ở trên, có thể kết luận chân dung của Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa và chân dung quan Trấn thủ Qui Nhơn mà Cristophoro Borri miêu tả trong Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631 có nhiều điểm khác biệt, thậm chí đây là 2 con người hoàn toàn khác nhau. Điều đó cho thấy đã có sự nhầm lẫn, ngộ nhận về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa. Đồng thời, việc “phong tặng” cho Khám lý Trần Đức Hòa các chức quan Trấn thủ Quy Nhơn (hay Tuần phủ, Tri phủ Quy Nhơn) và tôn vinh ông là “bà đỡ khai sinh chữ Quốc ngữ” là không có cơ sở.
Bên cạnh đó, điều đáng nói, những nhầm lẫn, ngộ nhận về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa đã và đang trở thành “vấn nạn sử học”. Theo đó, từ những “thông tin mới lạ” về Trần Đức Hòa mà các vị Đỗ Bang, Võ Đình Đệ, Nguyễn Thanh Quang, Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc… viết và công bố trên sách, báo, đài, truyền thông… nhiều người đã xem đó là những tư liệu lịch sử chuẩn mực và không ít tác giả đã viện dẫn trong các bài viết, tham luận, công trình, đề án nghiên cứu…
Bia mộ và sắc phong Khám lý - Cống quận công Trần Đức Hòa. |
Không chỉ có vậy, các chức tước, danh hiệu Trấn thủ, Tuần phủ, Tri phủ… Quy Nhơn, Bà đỡ khai sinh chữ quốc ngữ còn được nhiều tổ chức, đơn vị, dòng họ Trần Đức… “gán ghép” cho Khám lý Trần Đức Hòa.
Theo đó, lâu nay, trong gia phả tộc họ Trần Đức ở Bồng Sơn – Hoài Nhơn và trên bia mộ Trần Đức Hòa đều ghi rõ chức tước của ông là “Khám lý – Cống Quận công”. Tuy nhiên, sau Hội thảo Bình Định với chữ quốc ngữ, trong khuôn viên Khu tưởng niệm Trần Đức Hòa ở Bồng Sơn – Hoài Nhơn (Bình Định) xuất hiện một tấm bảng bằng đá, trong đó trích ý kiến của GS Phan Huy Lê: “Chữ quốc ngữ xuất hiện sớm ở Nước Mặn thuộc phủ Quy Nhơn, còn nhờ có vai trò của Khám lý (như Trấn thủ) Trần Đức Hòa. Điều này được miêu tả rất cụ thể trong sách của Borri”.
Tương tự, tại xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, UBND tỉnh Bình Định đã cho xây dựng bia Di tích lịch sử Nước mặn – Nơi phôi thai chữ Quốc ngữ. Nội dung bia ghi: “Nhờ sự bảo trợ của Khám lý phủ Quy Nhơn – Cống Quận công Trần Đức Hòa, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Nước Mặn lập cư sở truyền giáo đầu tiên ở Đại Việt vào tháng 7/1618”.
Những nhầm lẫn về lịch sử cần được cải chính. |
Đáng lưu ý, “vấn nạn sử học” liên quan đến những nhầm lẫn, ngộ nhận về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa còn như “vi rút” lan rộng ra thế giới. Có thể đơn cử như chương trình Lời vàng Ý ngọc số 337. Theo đó, trong chương trình này, với chủ đề Bà đỡ khai sinh chữ quốc ngữ, GS Quyên Di đã “phong tặng” cho Khám lý Trần Đức Hòa danh hiệu “Bà đỡ khai sinh chữ quốc ngữ”, đồng thời cho biết quan Trấn thủ Quy Nhơn là người có công giới thiệu Đào Duy Từ với chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên.
Như vậy, có thể thấy những nhầm lẫn, ngộ nhận về Khám lý – Cống Quận công Trần Đức Hòa đã trở thành “vấn nạn sử học”. Thiết nghĩ, đã đến lúc Viện Sử học Việt Nam, Hội KHLS Việt Nam, Bộ VH-TT&DL, Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh Bình Định cần thẩm định, đánh giá lại các nguồn thông tin, sử liệu liên quan đến cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Khám lý Trần Đức Hòa, đồng thời đính chính những nội dung nhầm lẫn, sai lệch liên quan đến nhân vật Trần Đức Hòa.