Ngọn gió Hua Tát
Nhà báo Dương Phương Vinh làm ở Ban Văn nghệ, là người khá thân và trực tiếp xử lý bài vở của Nguyễn Huy Thiệp, thường nhờ tôi ghé chỗ nhà văn để cầm bản thảo về tòa soạn. Từ mối công việc ấy, tôi thường gặp nhà văn.
Đọc Nguyễn Huy Thiệp, người đọc có thể thấy một thời đại đã qua, một thời đại của biết bao những “hiện tượng”, “thực trạng”, những vui buồn, thậm chí đôi khi cảm giác cả sự tan vỡ… Nhưng tất cả chúng, đều là những khoảnh khắc, những chất liệu mà chính nhà văn đã trải qua.
Mỗi lần xuống lấy bản thảo, chị Trang vợ anh lại nấu cơm cho hai anh em ăn, rồi chị ngồi cạnh hóng chuyện. Thỉnh thoảng chị lại đệm vào cái câu: “Có người bảo chồng tôi là nhà văn phản động chú ạ! Tôi khổ lắm!”. Nhìn những truyện ngắn của chồng được đăng trên báo Tiền Phong còn thơm mùi mực, chị Trang cảm thấy vui mừng không kém gì tác giả.
Chữ của Nguyễn Huy Thiệp khá đẹp, đặc biệt đều đặn, vẫn là nét chữ của một ông giáo. Nguyễn Huy Thiệp bảo tôi: “Anh sẽ không bao giờ cho em xem bản thảo đầu tiên của anh, vì nó được anh sửa bằng bút đỏ dày đặc, nó không phải sạch sẽ tinh tươm như thế này đâu”. Thậm chí, có truyện ngắn ông viết đăng rồi, sau lại chỉnh sửa và đăng lần thứ hai một “phiên bản có sửa chữa” chính trên tờ Tiền Phong. Những câu chữ của nhà văn, dù là “trần tục” hay “thánh thiện”, đều được chăm bẵm.
Nhờ trực tiếp gặp gỡ, trò chuyện về các bản thảo của nhà văn, cũng như đọc các bài viết, phát biểu của Nguyễn Huy Thiệp, tôi mới vỡ lẽ ra rằng Nguyễn Huy Thiệp không phải hoàn toàn là “nhà văn của đổi mới”, hay “sản phẩm của đổi mới” như rất nhiều người, trong đó có tôi, từng nghĩ. Nhà văn nói: “Tôi là chàng trai Hà Nội, được cử lên Tây Bắc dạy học từ những năm 1970. Họ bảo lên đó mấy năm rồi về xuôi, nhưng rút cục tôi ở trên đó hàng chục năm. Tôi hầu như không biết gì nhiều về cuộc sống của Hà Nội cũng như đời sống văn chương lúc ấy. Tôi bắt đầu viết văn từ những năm ở Tây Bắc”.
Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950. Theo bài viết của Mai Anh Tuấn đăng trên tờ Tia Sáng, thì “ở Hua Tát, Nguyễn Huy Thiệp có câu chuyện của riêng mình. Trái tim hổ viết năm 21 tuổi, Con thú lớn nhất viết năm 23-24 tuổi, và đến 27 tuổi, ông hoàn chỉnh mười truyện ngắn liên hoàn. Sau này, khi in sách (1989), ông đổi tên thành “Những ngọn gió Hua Tát”. Như vậy, Nguyễn Huy Thiệp hoàn thành 10 truyện ngắn đầu tiên của ông vào năm 1977-1978, hàng chục năm trước khi Đổi mới văn học diễn ra. Rõ ràng, Nguyễn Huy Thiệp viết văn từ rất sớm và có lẽ Đổi Mới giúp phát hiện ra tài năng văn học của ông cũng như giúp ông viết nhiều đề tài về đô thị, bởi khi ấy ông đã chuyển về làm việc tại Hà Nội.
Là một nhà văn nhiều năm sống và dạy học trong cái bản nhỏ gần Ngã ba Cò Nòi, nơi tôi cũng từng đến viết phóng sự, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có cái nhìn mới mẻ, khác lạ và độc lập đối với những gì đang diễn ra trong đời sống phố thị những năm 1980-1990. Những trang viết của anh như ngọn gió khác lạ, có vị đắng chát của núi rừng khiến người đọc thích thú và tranh luận.
Mê bóng đá
Nhiếp ảnh gia Nguyễn Hữu Bảo rất thân Nguyễn Huy Thiệp kể với tôi: “Anh em bạn bè gặp nhau sáng sớm, ai cũng gọi một vại bia, riêng Thiệp gọi một ly sữa. Thiệp là thế, không thích hoa hòe hoa sói, bụng còn trống rỗng thì uống bia làm gì”.
Tôi cứ nhớ mãi câu nói mà anh luôn hỏi tôi, mỗi khi xuống nhà: “Ăn gì chưa? Tí nữa chị nấu cơm ăn”. Nguyễn Huy Thiệp là thế. Ngay cả khi bị “đánh tơi bời” hay lúc được tôn lên mây xanh, anh vẫn luôn điềm tĩnh và giữ cho mình một nụ cười không thay đổi: “Có thực mới vực được đạo”. Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp luôn có chỗ cho giấc mơ. Anh nói: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”, nhưng trong cuộc sống, anh là một người thực tế và từ đó có những sự cảm thông, đôi khi chua chát. Có lần tôi chỉ ngôi nhà mới xây khá lớn, trắng toát, hỏi: “Nhà ai vậy anh?”. Anh Thiệp tặc lưỡi: “Nhà một ông cán bộ! Xây được cái nhà, chưa kịp ở thì vào tù vì tội tham nhũng. Lão phải đổi mười mấy năm tù cho cái nhà này”.
Một lần tôi đi viết bài về Nguyễn Huy Thiệp, cán bộ chính quyền chỗ anh ở nói rằng: “Nguyễn Huy Thiệp là một trong những người đi bầu cử chăm chỉ nhất. Lần bầu cử nào, ông ấy cũng đến sớm lắm, bỏ phiếu xong là về, không nói câu gì”.
Tác giả của Tướng về hưu rất mê bóng đá. Cụ thể, khi mở nhà hàng Hoa Ban đúng vào dịp World Cup, anh bảo tôi: “Mỗi ngày em chuyển cho anh mấy trăm tờ Tin Nhanh World Cup Tiền Phong, anh phát cho khách hàng, nhân viên đọc”. Anh còn cho in một tấm phướn về việc phát hành Tin nhanh World Cup Tiền Phong miễn phí tại nhà hàng Hoa Ban.
Mỗi sáng, tôi đều đưa báo sang Hoa Ban, vì thế anh em đều cà phê với nhau, nói chuyện về trận đấu đêm trước. Một hôm anh bảo: “Hôm qua Nguyên Ngọc (nhà văn) và bạn bè tới ăn, các nhà văn khen ngon”. Tôi hỏi: “Anh có tính tiền Nguyên Ngọc không đấy?”. Anh bảo: “Nhân viên tính tiền chứ không phải mình đâu”. Một hôm anh tủm tỉm bảo: “Một ông cấp tướng tới ăn, nói: Tôi hâm mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp!”.
Nhà văn nói rằng truyện Tướng về hưu, anh viết từ câu chuyện có thực trong dòng họ của anh. “Tất cả những câu chuyện tôi viết, đều là những câu chuyện tôi chứng kiến, trải qua, hoặc suy ngẫm về nó như về chính bản thân tôi” - Nguyễn Huy Thiệp nói như vậy.
Văn chương Nguyễn Huy Thiệp được dịch in ở nước ngoài rất nhiều, anh thường khoe với tôi những bản in mới. Sự ảnh hưởng của anh với văn học đương đại được nghiên cứu rất nhiều. Một lần, trong truyện “Ông Hạnh”, tôi viết trên Tiền Phong thử sử dụng một số bút pháp của Nguyễn Huy Thiệp, nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc xong, bảo tôi: “Truyện này hơi giống văn Nguyễn Huy Thiệp”. Từ đó, tôi luôn cẩn thận đọc lại bản thảo của mình xem có giống chút gì Nguyễn Huy Thiệp không. Tôi nghĩ nhiều nhà văn khác cũng vậy, phải cố gắng để không bị ảnh hưởng của anh Thiệp, vì Nguyễn Huy Thiệp chỉ có một mà thôi.
Ngày nay, khi đọc Nguyễn Huy Thiệp, người đọc có thể thấy một thời đại đã qua, một thời đại của biết bao những “hiện tượng”, “thực trạng”, những vui buồn, thậm chí đôi khi cảm giác cả sự tan vỡ… nhưng tất cả chúng, đều là những khoảnh khắc, những chất liệu mà chính nhà văn đã trải qua. Ông không viết về cuộc sống như những gì ông nhìn thấy mà ông viết về cuộc sống như những gì ông đã được nếm trải. Nói cho cùng, có gì khó hơn khi viết về chính nỗi đau của chính mình, có gì hạnh phúc hơn khi viết về chính niềm vui của mình.
Giờ đây, chị Trang đã mãi đi xa và đến lượt anh Thiệp cũng theo những cơn gió sông Hồng về nơi cực lạc, đem theo ký ức của làng Cò bên dòng sông Tô Lịch, với một ngôi nhà nhỏ bên mảnh vườn cây cối xác xơ.
Nghe tin anh đột quỵ, tôi liên lạc ngay với người bạn thân ở Hà Nội để ra thăm anh, nhưng bạn nói: “Thiệp có nhận biết gì được nữa đâu mà thăm với nom”. Tôi đành phải chờ anh khỏe hơn, để gặp anh, cùng nói chuyện gì đó cùng anh như những năm tháng đã qua. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã không trở lại cùng những câu chuyện hóm hỉnh của anh nữa. Anh đã ra đi, tất cả chỉ còn lại là trang viết đã qua.
Để kết thúc bài viết này, tôi muốn trích dẫn những câu viết của anh:
“Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi trên bếp lửa, uống sừng rượu cần với xeo thịt rừng sấy khô. Nếu khách là một người công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người”. (Nguyễn Huy Thiệp - Những ngọn gió Hua Tát).
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có hơn 10 năm cộng tác ở báo Tiền Phong với một số truyện ngắn nổi tiếng như: Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, Chuyện tình kể trong đêm mưa, Chuyện ông Móng, Đưa sáo sang sông... Ngoài ra, ông viết hơn 10 bài tiểu luận ký tên Dương Thị Nhã sau được tập hợp lại trong tập tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp.