Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’

TPO - Cả cuộc đời chinh chiến, Đại tướng Lê Đức Anh tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 - 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 - 1986), rồi tham gia ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 - 1989). Có lẽ vì thế, bom đạn cũng biết để “tránh” ông.

Trong hồi ký “Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng” của Đại tướng Lê Đức Anh, ông viết: “Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “Nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn truyền thống chí nhân chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong “Đại Cáo Bình Ngô”: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 1
Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Chiến dịch do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, ông Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị làm Chính ủy; các Phó Tư lệnh gồm: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Đức Anh; Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị là Trung tướng Lê Quang Hòa và quyền Tham mưu trưởng là Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.

Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh gồm 5 quân đoàn, với trên dưới 15 sư đoàn. Phân phối lực lượng của chiến dịch gồm Quân đoàn 1 tiến công từ hướng Bắc, Quân đoàn 2 đánh từ hướng Đông Nam, Quân đoàn 3 từ hướng Tây Bắc và Quân đoàn 4 từ hướng Đông Bắc. 

Riêng hướng Tây - Tây Nam, hướng Đồng bằng Sông Cửu Long, Bộ Chỉ huy miền xác định là hướng khó nhất vì phải băng qua rất nhiều cánh đồng sình lầy, chỉ có quốc lộ 4 là con đường giao thông huyết mạch. Nhiệm vụ của hướng là hình thành thế trận vu hồi, nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Cần Thơ, cũng như quân địch ở Quân đoàn 4, Quân khu 4 cũng không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn.

Toàn bộ cánh quân phía Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng làm Chính ủy.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 2 Các thành viên thuộc Bộ Tư lệnh Miền tại căn cứ Tà Thiết, Lộc Ninh, Sông Bé trước khi bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
(Trong ảnh: Đại tướng Lê Đức Anh, người thứ hai từ phải sang). Ảnh: Tư liệu
Trước chiến dịch Hồ Chí Minh, tướng Lê Đức Anh giữ nhiệm vụ Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, và là một trong hai người được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng tháng 4/1974 (cùng với tướng Đồng Sĩ Nguyên – Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn).
 

Đúng 17 giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây - Tây Nam tiến công. Sư đoàn 5 cắt đoạn Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cắt lộ 4 từ Mỹ Tho tới bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh - Lộc Giang, vượt sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa.

Ngày 30/4, cánh quân hướng Tây - Tây Nam đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát, cảnh sát đô thành, các quận Tân Bình, Bình Chánh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đất nước thống nhất, non sông liền một dải.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 3
 
Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 4
 

Trong cuộc đời tham gia hoạt động cách mạng của mình, cũng như lúc trong cuộc sống đời thường, nhiều lần Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã vượt qua những cơn hiểm nghèo một cách kỳ diệu.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Tư lệnh cánh quân phía Tây – Tây Nam Lê Đức Anh đã may mắn thoát chết trong thời điểm chỉ còn 2 ngày nữa là đến ngày toàn thắng. 

Theo lời Đại tướng kể lại, trong chiến dịch, sở chỉ huy của cánh quân hướng Tây - Tây Nam đóng ở ngay bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, ông cùng và các cán bộ phục vụ cũng được cất tạm một căn chòi nhỏ sát mép sông để sinh hoạt, làm việc.

Buổi sáng ngày 28/4/1975, ông sang ăn cơm tại căn nhà họp của địa phương làm nửa chìm nửa nổi, nơi Chính ủy Lê Văn Tưởng đặt cơ quan làm việc.

Đại tướng kể lại: “Vừa ăn xong tự nhiên anh Tưởng bảo tôi: “Anh hãy nán lại, nằm trên võng của tôi mà thở, nghỉ mươi phút rồi hẵng ra đó!”. Tôi nghe anh. Vừa ngả lưng thì ở ngoài chòi của tôi một quả bom từ máy bay địch ném trúng, cái chòi bay mất, cậu lái xe hy sinh, cậu Nguyễn Hồng Thái, chiến sĩ bảo vệ bị thương. Nếu hôm đó ăn xong tôi ra liền thì nhất định “cái chuyện thường” đã xảy ra với tôi... Chiến tranh nó có chừa ai, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên nhiều khi không thể mang “tính quy luật” ra mà giải thích!”.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 5

Lần thứ hai vào năm 1996 khi đang là Chủ tịch nước, ông bị tai biến rất nặng. Các cơ quan có thẩm quyền khi đó đã chuẩn bị các việc cần thiết cho việc ông qua đời và thông báo cho gia đình. Thế nhưng, bằng sức mạnh phi thường của bản thân, ông đã vượt qua cơn bạo bệnh một cách thần kỳ và trở lại làm việc bình thường trên cương vị Chủ tịch nước.

Lần thứ ba là vào đầu năm 2018 sức khỏe của ông cũng suy giảm nghiệm trọng, các cơ quan báo chí đã chuẩn bị bài để viết về cuộc đời ông... Thế nhưng, một lần nữa ông đã vượt qua cơn nguy kịch một cách thần kỳ, ngoài mọi tiên liệu của các bác sĩ.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 6
  

Trong bài phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân tại đảo Trường Sa ngày 7/5/1988, tôi (Đại tướng Lê Đức Anh) đã nhắc lại: Trong những năm 1950 và 1960, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hữu nghị, tình sâu nghĩa nặng. Đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình. Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa...

Sau khi nêu lên sự kiện ngày 14/3/1988 vừa qua, tôi nói rằng: Tại sao một số người lãnh đạo Trung Quốc nhân danh gì lại sử dụng vũ lực xâm chiếm một phần lãnh thổ của Việt Nam trên biên giới Việt - Trung, chiếm quần đảo Hoàng Sa, nay lại lấn chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam chúng ta?...

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự thật trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế… Chúng ta tin tưởng rằng trong tương lai, nhân dân và cán bộ Trung Quốc sẽ hiểu rõ sự thật... Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta...

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 7

Đại tướng Lê Đức Anh phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân tại đảo Trường Sa năm ngày 7/5/1988

Hôm nay, giữa trời cao, biển rộng bao la, trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta!". Các chiến sĩ hải quân cùng hô vang với tôi: "Xin thề!". Tiếng hô: "Xin thề! Xin thề! Xin thề!" vang vọng cả biển trời.

Sau đó, tôi đã chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng các nhà giàn và bố trí lực lượng trên tất cả các đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa. Anh em rất tích cực vận chuyển và xây dựng các công trình phòng thủ đảo. Các quân chủng, binh chủng: hải quân, không quân, phòng không, đặc công, thông tin đã tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 8

Trong sự nghiệp của mình, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” vào ngày 10/9/1994. Ngày 17/12/1994, ông đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” đợt đầu tiên cho 19.879 bà mẹ trong cả nước.

Ngày 29/12/1994, hàng trăm Mẹ Việt Nam Anh hùng đã cùng duyệt hàng quân danh dự với Chủ tịch nước Lê Đức Anh, trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.

Lê Đức Anh – Vị Đại tướng đến bom đạn cũng biết để ‘tránh’ ảnh 9

Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các Mẹ Việt Nam Anh hùng duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Ảnh tư liệu

 

                                                                            ----

(*)Trích Chương 11 cuốn "Đại tướng Lê Đức Anh - Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" do Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Hà Nội xuất bản năm 2015