Hai lần được truy điệu sống
Mùa hè năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng trai Lại Đăng Thiện (trú tại xóm 6, xã Nghĩa Bình, huyện Tân Kỳ, Nghệ An) viết đơn xin lên đường nhập ngũ. Đây cũng là khoảng thời gian cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn ác liệt nhất.
Hành trang là chiếc ba lô của anh trai từ thời chống Pháp để lại cùng một tập thơ Puskin, quyển sách gối đầu giường “Thép đã tôi thế đấy” và cây đàn Mandolin. Chàng trai trẻ được phân về Đội cảm tử quân thuộc Tiểu đoàn 27 công binh, Quân khu 4, nhiệm vụ rà phá bom từ trường ở những bến phà, cầu, đảm bảo con đường chi viện vào miền Nam luôn thông suốt. Cũng chính từ đó, đời quân ngũ của ông gắn liền với chiếc ca nô và những trận địa bom mìn trên sông.
Ông Thiện lục tìm những kỷ vật một thời khói lửa |
Dáng người gầy gò, đôi mắt hiền từ, ông Thiện nhớ lại, trong giai đoạn từ năm 1965 - 1973, ông đã cùng đồng đội vào sinh ra tử ở những trọng điểm ác liệt như cầu Hoàng Mai, phà Bến Thủy (Nghệ An); phà Linh Cảm, cầu Nghèn (Hà Tĩnh), phà sông Gianh, phà Long Đại (Quảng Bình). Đây đều là những nơi mà địch rải thảm đủ loại bom đạn dày đặc.
“Đội cảm tử quân đều là những con người dũng cảm, mưu trí và gan dạ. Mỗi lần lái ca nô ra sông đi rà phá bom đều là những lần đi giữa lằn ranh của sống - chết. Nhưng điều đó không làm chúng tôi chùn bước, bởi chúng tôi biết rằng, quân dân miền Nam đang đợi, đường Bắc - Nam phải thông cho kịp những chuyến hàng" - cựu chiến binh Lại Đăng Thiện.
“Đội cảm tử quân đều là những con người dũng cảm, mưu trí và gan dạ. Mỗi lần lái ca nô ra sông đi rà phá bom đều là những lần đi giữa lằn ranh của sống - chết. Nhưng điều đó không làm chúng tôi chùn bước, bởi chúng tôi biết rằng, quân dân miền Nam đang đợi, đường Bắc - Nam phải thông cho kịp những chuyến hàng. Nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm nên Đội cảm tử quân nhiều lần làm nhiệm vụ đều được truy điệu sống. Riêng tôi cũng được đồng đội truy điệu sống 2 lần”, ông Thiện tâm sự.
Lần thứ nhất là vào tháng 11/1967. Tình thế chiến trường hết sức căng thẳng, địch phong tỏa nhiều tuyến giao thông huyết mạch để ngăn chặn dòng chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Tại bến phà Long Đại (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) địch thả bom từ trường dày đặc. Nhiều phương tiện, hàng hóa bị mắc kẹt lại ở phía bờ Bắc không thể tiếp viện cho chiến trường miền Nam.
Lãnh đạo quân khu ra chỉ thị cho Tiểu đoàn 27 bằng mọi cách phải nổi bến, thông phà. Tiểu đoàn trưởng quyết định dùng ca nô kích bom từ trường nổ. Để làm được điều này, tổ lái ca nô đi trên sông dò bom đòi hỏi phải thuần thục, khéo léo và quan trọng hơn là tinh thần cảm tử, không sợ chết.
Nhật ký Lại Đăng Thiện nói về hai lần truy điệu sống |
Lại Đăng Thiện cùng đồng đội Hà Huy Ty, Nguyễn Văn Thương, Đậu Anh Côi được đơn vị tổ chức lễ "truy điệu sống" trước giờ lái ca nô vào bãi bom. “Tối hôm đó, sau các nghi lễ chào cờ, tưởng niệm và đọc điếu văn, tất cả chiến sĩ trong đơn vị nín lặng rồi òa khóc. Khi lời điếu văn vừa dứt, 4 cánh tay mạnh mẽ giơ lên cùng hô vang lời thề 'Quyết tử cho Tổ quốc'. Lời thề vừa dứt, cả tổ lái nổ máy lướt ca nô lao trên sông đi về phía bờ Nam để làm nhiệm vụ rà bom”, ông Thiện nhớ lại.
Thật may, cả 4 chiến sỹ đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở về trong sự vui mừng, xúc động của đồng đội.
Lần thứ hai diễn ra vào năm 1968. Lúc này tổ nhiệm vụ gồm ông Lại Đăng Thiện, Đậu Anh Côi, Nguyễn Xuân Tình, Vũ Ngọc Chương được lệnh lái ca nô làm nhiệm vụ rà bom để thông phà Linh Cảm (huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) sau 2 ngày đêm bị bom từ trường khống chế.
“Đây là tọa độ lửa khi nằm giữa ngã 3 sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố, chốt chặn trên đường vào Nam hoặc sang Lào. Vì thế lượng bom đạn ném xuống nhiều vô kể. Trước lúc lao mình vào trận địa dày đặc bom để rà phá, tổ lái ca nô một lần nữa đơn vị tổ chức lễ truy điệu sống với đầy đủ thủ tục như đọc điếu văn, tuyên thệ”, ông kể.
Sau lời truy điệu, ông Thiện cùng với Nguyễn Xuân Tình lái 19 vòng ca nô, kích nổ được 12 quả bom từ trường. Dù hoàn thành nhiệm vụ nhưng lần này, người đồng đội Vũ Ngọc Chương đã anh dũng hy sinh sau khi lái ca nô qua 4 vòng. Riêng chiến sỹ Đậu Anh Côi bị thương nặng.
Chọn nghề cứu người
Đất nước giải phóng, ông Lại Đăng Thiện xuất ngũ trở về quê hương với nhiều thương tật trên người. Không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, ông vẫn nỗ lực học tập và trúng tuyển vào lớp Y16, chuyên Khoa sản của Trường Trung cấp Y tế Nghệ Tĩnh. Sau 2 năm đèn sách, ông Lại Đăng Thiện xung phong về Trạm Y tế xã nhà công tác.
Theo lời ông Thiện, thời đó khó khăn lắm, cơ sở vật chất còn hạn chế, thiếu thốn đủ bề. Tuy khó khăn nhưng với chữ tâm của người thầy thuốc, ông luôn hoàn thành trách nhiệm và chưa để xảy ra một sai sót đáng tiếc nào. Trong thời gian 13 năm làm nghề ông đã làm “bà đỡ” cho hơn 400 em bé.
Sau chiến tranh, ông Thiện về quê làm nghề y cứu người và sáng tác thơ |
Năm 1991, ông Lại Đăng Thiện nghỉ hưu trở về nhà tiếp tục vui vầy với ruộng vườn, nhà cửa. Ông tìm niềm vui cuộc sống qua những vần thơ, tái hiện một thời chiến trường khói lửa. Những vần thơ lắng đọng, ngôn từ bình dị, chân chất.
“Trong khoảng thời gian đi bộ đội, tôi đã viết tập 'Nhật ký thơ' với gần 100 bài. Nội dung của những bài thơ này chủ yếu ca ngợi Đảng, các đồng đội, và cả tình yêu thiên nhiên xen lẫn cả những bài thơ tình đã được đồng đội truyền tai nhau học thuộc. Hiện tại tôi vẫn sáng tác và tham gia câu lạc bộ thơ của xã nhà”, ông Thiện bộc bạch.
Từ năm 2011 đến nay, các tác phẩm của ông Lại Đăng Thiện đã được xuất bản thành 3 tập thơ với tên "Cung trầm", "Thì thầm lời quê", "Lặng lẽ miền thơ".