Chuyện ít biết thời đi học của Đại tướng

Chuyện ít biết thời đi học của Đại tướng
Rất nhiều câu chuyện sẽ chẳng ai biết nếu ông không kể lại như việc ông học rất giỏi thậm chí là đỗ đầu kì thi tốt nghiệp bậc sơ học (certificat d’étudé primaires) ở tỉnh Quảng Bình.

> Nghẹn ngào Quốc học Huế'

> Bảng điểm, ảnh hiếm thời niên thiếu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

> Đại tướng thần tượng của giới trẻ

"Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ" là tác phẩm duy nhất phác hoạ lại quãng thời gian trước tuổi 20 (từ 1911 đến 1931) của Đại tướng, được dịch ra hai thứ tiếng Anh và Pháp.

Đây là kết quả 10 năm sưu tầm tư liệu và thực hiện bản thảo của tác giả -Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam Ở tuổi 85, Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại công việc này.

Tướng Giáp năm 20 tuổi. Ảnh: Sở Mật thám Pháp
Tướng Giáp năm 20 tuổi. Ảnh: Sở Mật thám Pháp .

"Khoảng" trống duy nhất

Cho tới trước khi tôi viết sách, đã có rất nhiều học giả và nhà báo trong, ngoài nước viết về Đại tướng. Đó là chưa kể tới hàng ngàn trang hồi ký của chính ông (do nhà văn Hữu Mai thể hiện) bao gồm các tập Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu trong vòng vây, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa Xuân đại thắng.

Gần như, toàn bộ các thông tin, sự kiện và những câu chuyện lớn nhỏ về cuộc đời, sự nghiệp của Đại tướng đều có thể tìm thấy trong những trang sách ấy.

Chỉ có một “khoảng trống” duy nhất mà các tác giả gần như không đề cập, hoặc nếu có cũng chỉ phác qua: đó là tuổi thơ và tuổi trẻ của Đại tướng trong khoảng thời gian cho tới năm 1931- khi ông 20 tuổi.

Đó là điều dễ hiểu, bởi tư liệu trong nước về giai đoạn này gần như không có, còn các tài liệu nước ngoài cũng rất sơ sài.

Trung tướng Phạm Hồng Cư kể: “Trong quân đội, kể từ 1946, tôi có nhiều năm trực tiếp làm việc dưới quyền Đại tướng. Ý tưởng viết cuốn sách này được đưa ra từ năm 1986, tuy nhiên, phải tới khi về hưu vào năm 1995, tôi mới thật sự có thời gian để chuyên tâm cho công việc.

Với tôi, việc viết cuốn sách này là một nhu cầu có thật: bạn đọc Việt Nam đều yêu quý, ngưỡng mộ Đại tướng và luôn mong được biết về cuộc đời ông một cách trọn vẹn, hoàn chỉnh nhất qua từng mốc thời gian.

Cuốn sách ra đời năm 2004, đúng dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong 10 năm ấy, tôi đi tìm tư liệu thực địa kết hợp với những cuộc phỏng vấn Đại tướng và người thân.

Sách khép lại vào năm 1931, khi ông được thực dân Pháp phóng thích khỏi nhà lao Thừa Phủ và chuẩn bị rời khỏi Huế”.

Ba năm sinh khác nhau

Cuốn sách là những mảng hồi ức được ghép lại từ nhiều nguồn. Do vậy, rất nhiều lần tôi phải bỏ công tìm và thẩm định để có một thông tin chính xác.

Chẳng hạn, có nhiều dị bản khác nhau về năm sinh của Đại tướng: từ điển Larousse của Pháp ghi rằng đó là năm 1911; cuốn GIAP ( xuất bản năm 1977 tại Paris) của tác giả Boudarel và bài viết trên tờ The Sunday Times magazine của tác giả James Fox thì khẳng định ông sinh năm 1910; còn các công bố của Jean Sainteny thì nói rằng ông sinh năm 1912.

Xin nói thêm, các tác giả trên đều có dẫn chứng lập luận của mình. Chẳng hạn, Jean Sainteny là đại diện của Chính phủ Pháp sang Việt Nam đàm phán vào năm 1946 nên có trong tay những bản điều tra của mật thám Pháp về lý lịch Tướng Giáp và các lãnh tụ Việt Nam.

Còn tác giả James Fox thì do một sự tình cờ đặc biệt, đã có trong tay bản sơ yếu lý lịch của Đại tướng bằng tiếng Pháp được ông nộp khi nhập học Đại học Đông Dương (Hà Nội). Hồ sơ này ghi rằng Tướng Giáp sinh ngày 1/9/1910.

Trước những số liệu khác nhau này, tôi chỉ có một cách xác minh duy nhất là hỏi người thân của Đại tướng. Chị Đặng Bích Hà, phu nhân Đại tướng, cho biết ông sinh ngày 25/8/1911.

Bản thân ông cũng không nhớ năm sinh của mình, con số 1911 được xác định vì cụ Nguyễn Thị Kiên, thân mẫu Đại tướng, nhớ rất rõ rằng con mình tuổi Hợi (Tân Hợi).

Bà cũng nhớ rõ ngày sinh của ông, có điều là nhớ theo “lịch âm” nên gia đình phải nhờ học giả Trần Văn Giáp tính lại và “quy đổi” thành ngày dương lịch 25/8.

Khi biết lập luận này, một số nhà nghiên cứu quốc tế đã đồng tình với tôi. Họ nói: trên đời, chắc chắn chỉ có một người duy nhất không bao giờ nhớ sai ngày sinh của con, đó là người mẹ.

Rất tiếc, gia đình không có một lá số tử vi nào của Đại tướng nên không tính được giờ sinh của ông. Trường hợp bản lý lịch tại Đại học Đông Dương của Đại tướng có thể giải thích bằng việc chủ động khai tăng tuổi khi đi học, vốn khá phổ biến với nhiều sinh viên thời đó.

Bảng điểm các năm từ năm 1934-1938
Bảng điểm các năm từ năm 1934-1938 .

Thi trượt Trường Quốc học Huế

Khi viết sách, tôi có một số lần tiếp xúc trực tiếp với Đại tướng. Ở độ tuổi gần 90 khi ấy, trong trí nhớ của Đại tướng vẫn còn lưu giữ rất nhiều mảnh ký ức liên quan tới tuổi trẻ của mình.

Rất nhiều câu chuyện sẽ chẳng ai biết nếu ông không kể lại. Chẳng hạn, đó là việc ông học rất giỏi thậm chí là đỗ đầu kì thi tốt nghiệp bậc sơ học (certificat d’étudé primaires) ở tỉnh Quảng Bình.

Nhưng sau đó, năm 13 tuổi, khi lên bậc trung học, ông lại thi trượt kì thi vào Trường Quốc học Huế. Vậy là ông phải khăn gói lên Huế ôn thi một năm trước khi đỗ loại khá ở kì thi năm 1924.

Cần nhớ rằng giáo dục thời Pháp khi đó rất khắt khe, Trường Quốc học Huế chỉ tuyển có 90 học sinh cho 12 tỉnh miền Trung. Khi tôi hỏi vì sao trượt, Đại tướng lắc đầu cười bảo không biết.

Tôi nghĩ vui trong bụng rằng đó là bài học duy nhất trong đời của Đại tướng về tính chủ quan, điều sẽ không bao giờ lặp lại khi trở thành một vị tướng trận mạc sau này.

Cũng chính Đại tướng kể cho tôi nghe việc khi còn là thanh niên, ông từng khước từ ý định cầu hôn của một gia đình Bá hộ trong làng. Gia đình này muốn gả con gái cho ông, đồng thời hứa cho ruộng cho nhà. Nhưng thân mẫu ông thì thương con nên không ép.

Khi đó, ông đã tham gia phong trào yêu nước và từng bị đuổi học vì tổ chức bãi khóa ở trường Quốc học trong chuỗi hoạt động hưởng ứng để tang cụ Phan Chu Trinh.

Trong những câu chuyện của mình, Đại tướng nhắc nhiều tới những gương mặt mà ông yêu quý khi còn trẻ. Ông kể về việc nhiều lần cùng học sinh Quốc học tới nhà riêng để thăm cụ Phan Bội Châu.

Cụ Phan rất thương ông, thường xuyên cho mượn sách và nói: Khi nào tôi mất, tủ sách này để lại cho cậu Giáp.

Về cha mình, cụ Võ Quang Nghiêm, Đại tướng kể ông là người sống giản dị, sáng nào dậy cũng ăn ba bát cháo hoa với cà và gọi là “sâm của nhà nghèo”.

Sau kháng chiến toàn quốc, cụ bị thực dân Pháp bắt giam tại Huế và mất trong tù, phải sau năm 1945 gia đình mới tìm được hài cốt.

Đôi mắt sáng và thông minh

Tuổi thơ và tuổi trẻ của Đại tướng gắn liền với 2 tỉnh Quảng Bình và Huế. Khi đi khảo sát tư liệu, tại quê hương ông, rất nhiều cụ già trong vùng vẫn còn lưu giữ các câu chuyện được truyền từ đời này sang đời khác về gia đình và dòng họ của Đại tướng.

Theo đó, ông ngoại của Đại tướng từng tham gia phong trào Cần Vương thời vua Hàm Nghi. Ông nội Đại tướng mất rất sớm, mãi tới đầu thế kỉ 21, những người yêu mến Đại tướng trong vùng mới giúp gia đình tìm thấy mộ của cụ.

Một phần lớn câu chuyện, tôi bắt đầu bằng việc hỏi chị Đặng Bích Hà. Cũng chỉ có nhờ chị Hà, tôi mới có may mắn được tiếp cận với một số kỉ vật riêng của gia đình, chẳng hạn như ảnh thờ của song thân Đại tướng, một số lớn thư từ được viết trong chiến tranh.

Đặc biệt, tôi có may mắn được gặp thân mẫu Đại tướng tại nhà riêng ở Hà Nội trước khi cụ mất vào năm 1961. Khuôn mặt Đại tướng đặc biệt rất giống mẹ, nhất là đôi mắt sáng và thông minh.

Điều này làm tôi nhớ tới lời nhận xét của nữ ký giả phương Tây là bà Orian Fallaci rằng đó là cặp mắt thông minh nhất mà tôi từng thấy.

Ngoài chị Hà, tôi cũng có thời gian tiếp xúc với ông Võ Thuần Nho, em ruột Đại tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam.

Những câu chuyện về gia đình, họ hàng Đại tướng chủ yếu là do ông Nho kể. Theo đó, tôi được biết là gia đình Đại tướng có tất cả 7 anh chị em, trong đó 2 người mất sớm vì bệnh và thiên tai, 2 người khác cũng mất trước chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau năm 1954, ngoài 2 anh em trai Đại tướng, trong nhà chỉ còn lại cô út là bà Võ Thị Lài, sau này làm nhân viên coi kho của một cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp.

Theo Thể thao và Văn hóa

Theo Đăng lại
MỚI - NÓNG