Tại buổi tọa đàm, GS.TS Nguyễn Lân Dũng bày tỏ lo ngại về mục tiêu dạy tích hợp một số môn trong Chương trình (ở bậc tiểu học và THCS), nhất là khó đào tạo kịp đội ngũ giáo viên.
Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho biết dạy tích hợp được đặt vấn đề ngay từ khi triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2002. Tuy nhiên, sau đó phải gác lại vì một trong những lo ngại là không kịp đào tạo giáo viên. “Đến nay sau 16 năm việc đào tạo giáo viên dạy tích hợp vẫn chưa có gì”, ông Hiển nói. Cũng theo ông Nguyễn Vinh Hiển dạy tích hợp đến mức độ nào thì chúng ta cần tính toán cho phù hợp với điều kiện của từng trường, từng địa phương nhưng nếu không làm thì không thể tiến tới được mục tiêu cao hơn.
Là nơi đào tạo giáo viên lớn của cả nước, GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội nêu thực tế, với sự xuất hiện của nhiều khoa học liên ngành mới nếu vẫn dạy đơn môn thì khó xây dựng tư duy tổng hợp, sáng tạo cho học sinh. Nhưng với thực tiễn Việt Nam cần cân nhắc mức độ. Theo GS Nguyễn Văn Minh, để dạy tích hợp, cái khó là cách dạy, học, đánh giá học sinh nhưng không có nghĩa không làm được. Vấn đề là thay đổi nhận thức của thầy cô giáo. Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cũng đang nỗ lực xây dựng chương trình bồi dưỡng, đào tạo giáo viên theo hướng tích hợp.
Đồng tình với quan điểm này, PGS.TS Trần Kiều, Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng tích hợp là một xu thế phải theo. Tất nhiên trong điều kiện của Việt Nam thì cần xem xét mức độ tích hợp đến đâu. Trong đó cần hết sức lưu ý đến đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ… để phục vụ hiệu quả cho dạy tích hợp.
Nhiều ý kiến cũng đề nghị Ban Phát triển Chương trình xem xét, cân nhắc hai phương pháp dạy “tích hợp” và “tổ hợp” trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. Theo đó, phương pháp dạy tổ hợp thì từng môn vẫn do từng giáo viên giảng dạy, còn phần chuyên đề chung sẽ sử dụng kiến thức liên môn, được phân công cụ thể cho mỗi giáo viên.
Lãnh đạo Bộ GD&ĐT cho biết sau khi tiếp thu, hoàn thiện, tinh thần dạy tích hợp, tổ hợp sẽ được đưa vào Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, tiếp đến là chương trình các môn học cụ thể, sách giáo khoa, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Nhưng cho tới thời điểm hiện tại, chưa có ai khẳng định các trường sư phạm không đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo từng môn chuyên biệt.
Giảm tải không phải là cắt bỏ kiến thức cơ học
Thảo luận sâu về yêu cầu giảm tải chương trình giáo dục phổ thông, các chuyên gia cho rằng cần đánh giá đầy đủ, toàn diện vấn đề này, không thể thực hiện máy móc, cực đoan.
Theo NGND Trần Tiến Dũng, Hiệu trưởng THCS-THPT Thăng Long, tình trạng quá tải chương trình học hiện nay có nguyên nhân sâu xa là không đủ thời gian dạy. “Trường nào không dạy 2 buổi thì rất vất vả với chương trình học hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện Chương trình cần linh hoạt, nơi nào có điều kiện thì học theo chuẩn, nơi không có điều kiện thì phải học thêm thứ Bảy chứ không vì yêu cầu giảm tải mà cắt xén tuỳ tiện, cực đoan”, ông Dũng bày tỏ.
Một số chuyên gia bổ sung nguyên nhân quá tải của chương trình phổ thông hiện nay đang “thừa cái không cần, thiếu cái cần, phương pháp dạy học mang tính nhồi nhét, cơ sở vật chất không đủ…”. Vì vậy, nhiều chuyên gia đề nghị việc cắt giảm kiến thức để giảm tải cần xem xét thận trọng để lựa chọn được những khối kiến thức cần thiết, bổ ích chứ không thể “học ít đi mà lại giỏi hơn”.
Phát biểu tại buổi tọa đàm, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ cho biết: “Những vấn đề chưa thực sự yên tâm thì chúng tôi tiếp tục tiếp thu, không né tránh để hoàn thiện Chương trình nhưng cũng cần tính đến lộ trình theo nghị quyết của Quốc hội. Các công việc tiếp theo như biên soạn sách giáo khoa, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị cơ sở vật chất… đang được Bộ chỉ đạo thực hiện song song chứ không chờ xong Chương trình mới triển khai tiếp. Trong quá trình này chúng tôi vẫn tiếp tục lắng nghe những ý kiến tâm huyết”.
Phó Thủ tướng Vũ Ðức Ðam lưu ý lãnh đạo Bộ GD&ÐT, bên cạnh việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất theo lộ trình, Bộ cần làm tốt công tác tư tưởng cho thầy cô giáo. Ðồng thời chú trọng hoạt động thông tin, tuyên truyền. Tiếp tục tiếp nhận ý kiến của chuyên gia, đặc biệt là các hội chuyên ngành về lịch sử, sinh học, toán học, văn học… đến trước thời điểm công bố để phân loại mức nào tiếp thu, mức nào giải trình, phân tích lại.