1. Ai là người đầu tiên đoạt giải Nobel ở hai lĩnh vực?
-
icon
Gerty Theresa Cori
-
icon
Maria Goeppert-Mayer
-
icon
Marie Curie
2. Marie Curie biết đọc khi mấy tuổi?
-
icon
4 tuổi
-
icon
5 tuổi
-
icon
6 tuổi
Marie biết đọc lúc chỉ có 4 tuổi, lúc nào cũng đứng đầu lớp và có rất nhiều thành tích xuất sắc và học giỏi nhiều môn. Nhưng Marie chẳng thấy vui vì thời đó, người Ba Lan bị cấm đọc, viết tiếng Ba Lan và phải tuân thủ theo các luật lệ của Nga, Tuy nhiên, gia đình vẫn nói tiếng Ba Lan và hát những bài ca dân gian nhằm mong muốn bản sắc dân tộc không bị mai một đi. Hơn nữa, bố của Marie bị đuổi việc, gia đình phải chuyển đến một khu tập thể. Chị cả của Marie, Sophie, qua đời vì bệnh thương hàn. Sau đó, mẹ của Marie cũng qua đời vì bệnh phổi, năm Marie 11 tuổi. Tại nơi Marie sinh sống và tất cả các quốc gia trong khu vực Châu Âu không phải nữ giới nào cũng có thể đi học. Vì thế, Marie đã cố gắng rất nhiều trong việc làm thêm ròng rã trong 6 năm thời niên thiếu của mình. Khi tích lũy đủ số tiền, nơi bà đến là một Paris đầy những hứa hẹn về khoa học, về những điều phi thường và nữ giới được chấp thuận học tập và làm việc tại vùng đất này. Marie cố gắng học thật tốt, nhiều lúc, Marie còn quên cả ăn, cả ngủ. Ít lâu sau, Marie đỗ thủ khoa, nhưng do không có tiền, Marie phải đi làm gia sư để có tiền đi học. Khi làm gia sư cô đã từng có người yêu, nhưng do hoàn cảnh nên tình yêu đã không đến với cô. Cô đã bỏ lại tất cả để chị gái thứ ba, Bronisława Skłodowska, được vào Đại học Y ở Paris.
3. Marie Curie đã gặp chồng tương lai, Pierre Curie như thế nào?
-
icon
Bà gặp ông tại bữa tiệc do chị gái tổ chức
-
icon
Bà tìm kiếm phòng thí nghiệm và được giới thiệu rằng Pierre có thể giúp đỡ
-
icon
Bà ở gần nhà của Pierre
Câu trả lời đúng là đáp án B: Theo Biographics, mùa xuân năm 1894, trong khi học để lấy bằng Toán, Marie nhận công việc nghiên cứu từ tính của nhiều loại thép cho một công ty Pháp. Để thực hiện công việc, bà cần tìm một phòng thí nghiệm. Józef Wierusz-Kowalski, nhà vật lý người Ba Lan, đã giới thiệu bà cho một người đàn ông có khả năng giúp đỡ. Tên ông là Pierre Curie, giáo sư và trưởng phòng thí nghiệm tại Trường Vật lý và Hóa học Công nghiệp ở Paris. Ông nổi tiếng với công trình nghiên cứu về các tinh thể và nam châm. Pierre dần bị Marie cuốn hút. Người đàn ông vốn xem sự tồn tại của hầu hết phụ nữ là sự lãng phí không gian. Nhưng Marie thì khác. Bà rất thông minh và có tình yêu sâu sắc đối với khoa học. Thay vì theo đuổi bà bằng những bó hoa, Pierre cố gắng đánh cắp trái tim Marie bằng cách đưa bà bản sao viết tay một trong những bài báo Vật lý của ông. Pierre hỏi cưới Marie không lâu sau khi họ gặp gỡ lần đầu. Marie muốn nói đồng ý, nhưng cảm giác rằng nếu cưới Pierre, bà sẽ không bao giờ trở về sống ở Ba Lan được nữa. Do vậy, sau khi hoàn thành bằng Toán học, bà trở về Warsaw trong một kỳ nghỉ, lòng không chắc sẽ quay lại Paris. Thời gian ở quê nhà, Marie nhận được những bức thư tình dồn dập của Pierre. Thêm vào đó, bà không được nhận vào Đại học Kraków (Ba Lan) chỉ vì là phụ nữ. Cuối cùng, được Pierre thuyết phục, Marie quyết định quay trở lại Pháp để tiếp tục sự nghiệp và để gặp ông. Marie và Pierre kết hôn ngày 26/7/1895. Thay vì diện váy cưới, bà mặc bộ váy màu xanh sẫm sử dụng trong phòng thí nghiệm. “Tôi không có chiếc váy nào ngoài trang phục vẫn mặc hàng ngày”, bà giải thích. Tuần trăng mật, vợ chồng Curie đạp xe du lịch khắp vùng nông thôn Pháp. Họ có hai con gái là Irene và Eve.
4. Marie và Pierre cùng nhau nghiên cứu các vật chất gì?
-
icon
Phóng xạ
-
icon
polonium
-
icon
radium
Câu trả lời đúng là đáp án C: Sau khi tiến sĩ Henri Becquerel phát hiện ra uranium có tính phóng xạ (phát sáng), Marie và Pierre cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đã có giải thích hợp lý: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này. Sau nhiều năm nghiên cứu họ đã tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối clorua (radium chloride) và hai nguyên tố mới, có tính phóng xạ mạnh hơn cả urani. Pierre và Marie quyết tìm ra nguyên tố ấy bằng cách phân tích khoáng vật pitchblend (có chứa urani). Sau khi làm thí nghiệm nhiều lần, ngoài nguyên tố phóng xạ trên còn có một nguyên tố nữa mà Marie phát hiện ra là polonium được bà đặt theo tên quê hương Ba Lan của mình (Pologne theo tiếng Pháp, Polska theo tiếng Ba Lan), và nguyên tố kia tên radi vì khả năng phóng xạ của nó (radiation). Tuy nhiên, lúc đầu công bố, do lượng radi trong pitchblend quá nhỏ nên Pierre và Marie chưa thể lọc ra được, vì thế radi vướng phải rất nhiều sự hoài nghi từ giới khoa học nên không được công nhận. Sau lần đó, Pierre và Marie quyết định lọc radi ra khỏi pitchblend, và trong tám tấn pitchblend thì chỉ có một gram radi nhỏ. Sau 4 năm ròng rã cho sự nỗ lực của cả hai vợ chồng, họ đã chứng minh được điều mà mình phát hiện ra. Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này. Tám năm sau, bà nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Bà cố ý không lấy bằng sáng chế tiến trình tách radium, mà để các nhà nghiên cứu tự do sử dụng nó. Bà là người đầu tiên nhận, hay chia cùng người khác, hai giải Nobel. Bà là một trong hai người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau (người kia là Linus Pau
5. Marie Curie qua đời năm 1934 vì lý do gì?
-
icon
Bị đè bởi một chiếc xe ngựa
-
icon
Ung thư máu do sự tích tụ của bức xạ
-
icon
Tự sát
Câu trả lời đúng là đáp án B: Chứng thiếu máu không tái tạo khiến Marie Curie qua đời ngày 4/7/1934. Bà đã mang theo các ống nghiệm chứa radium trong túi áo khoác khi ở trong phòng thí nghiệm, khiến sức khỏe bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại thời điểm bệnh ung thư máu chưa được biết đến, các bác sĩ của bà đã chẩn đoán: "Căn bệnh này là một bệnh thiếu máu ác tính bất thường phát triển nhanh, tủy xương không phản ứng, có thể vì nó đã bị tổn thương trong thời gian dài do tiếp xúc với môi trường phóng xạ”. Biography cho biết, năm 1995, tro xương của Marie cùng chồng được đưa vào điện Panthéon ở Paris, nơi an nghỉ của các vĩ nhân lịch sử và những người đã làm rạng danh cho nước Pháp. Marie Curie trở thành người phụ nữ đầu tiên và duy nhất được an nghỉ tại đây.
6. Chồng bà – Pierre Curie mất vì bị gì?
-
icon
Bị đè bởi một chiếc xe ngựa
-
icon
Ung thư máu do sự tích tụ của bức xạ
-
icon
Thương hàn
Năm 1906, chồng bà – Pierre Curie mất vì bị một chiếc xe ngựa đè lên khi đang đi trên phố. Pierre Curie sinh ra tại Paris, Pháp và là con trai của Tiến sĩ Eugène Curie (1827–1910) và Sophie-Claire Depouilly Curie (1832–1897). Nhờ sự dạy dỗ của cha, Pierre sớm bộc lộ thiên hướng mạnh mẽ về toán học và hóa học. Năm 16 tuổi, ông đã giành được học vị toán học. Cho tới 18 tuổi ông đã gần như hoàn thành học vị cao hơn, nhưng không theo đuổi học vị tiến sĩ do thiếu tiền. Thay vào đó ông làm việc tại phòng thí nghiệm với vai trò người hướng dẫn.
7. Con gái nào của bà được trao một giải Nobel hóa học trong năm 1935?
-
icon
Irène Joliot-Curie
-
icon
Ewa Curie
Câu trả lời đúng là đáp án A: Con gái lớn nhất của bà, Irène Joliot-Curie đã được trao một giải Nobel hóa học trong năm 1935, một năm sau khi Marie Curie qua đời. Irène Joliot-Curie ( 1897- 1956) là một nhà hóa học và nhà vật lý học người Pháp. Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trung học, bà gia nhập Viện Nghiên cứu Radium và trở thành phụ tá cho mẹ mình. Chính trong khoảng thời gian này, bà đã gặp Frédéric Joliot- nghiên cứu sinh tại Collège de France. Họ kết hôn năm 1926 và có hai người con là Hélène Langevin-Joliot sinh năm 1927 và Pierre Joliot-Curie sinh năm 1932. Họ làm việc cùng nhau trong các công trình về phóng xạ tự nhiên và nhân tạo, sự biến tố và vật lý hạt nhân. Công trình của họ về sự va chạm của các hạt neutron vào hạt nhân các nguyên tố nặng chính là một bước quan trọng trong quá trình tìm ra phản ứng phân hạch hạt nhân. Năm 1935, Frédéric và Irène Joliot-Curie cùng nhau đạt giải Nobel Hóa học. Họ bắt đầu làm việc cho dự án bom nguyên tử của Pháp từ năm 1939 (họ cùng nhau nhận được bằng sáng chế cho công trình này). Dự án bom nguyên tử này của Pháp là dự án tiên tiến nhất về bom nguyên tử trước Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến khi người Mỹ, với dự án Manhattan khổng lồ chiếm mất vị trí này. Irène Joliot-Curie qua đời ngày 17/3/1956 tại Paris vì căn bệnh bạch cầu giống như mẹ bà do ảnh hưởng từ các phản ứng phóng xạ với chất poloni mà bà đã thực hiện trong quá trình làm việc. Hai năm sau đó, chồng bà cũng mất vì bệnh gan vào ngày 14/8/1958. Con gái út của Marie Curie, Ève Curie, người duy nhất trong gia đình Curie không được trao giải thưởng Nobel. Các thành viên còn lại đã được nhận tổng cộng 5 giải thưởng loại này: hai cho bà mẹ, một cho ông bố, một cho chị gái và anh rể, chồng bà cũng được nhận Nobel. – Chỉ mỗi mình tôi không có vinh dự đó. Tôi làm „xấu mặt' gia đình này quá – cuối đời bà Ewa Curie đã nói đùa như vậy.
8. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, bà đã bán Nobel làm bằng vàng của mình và chồng để làm gì?
-
icon
Để cứu con gái
-
icon
Để có tiền nghiên cứu
-
icon
Để giúp chiến tranh
Câu trả lời đúng là đáp án B: Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, bà vận động để có các máy chụp tia X di động để có thể điều trị các thương binh. Những máy này được cung cấp lực từ xạ khí radium, một khí không màu, phóng xạ từ radium, sau này được nhận ra là radon. Marie đã lấy khí này từ radium bà đã tinh chế. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, bà đã bán giải Nobel làm bằng vàng của mình và của chồng để tiếp tục nghiên cứu. Năm 1921, bà đã đến Hoa Kỳ để gây quỹ trong cuộc nghiên cứu radium và được đón tiếp nồng hậu.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
điểm