Đặc biệt là các sách đời Minh như “Tỉnh thế hằng ngôn” của Phùng Mộng Long, “Phách án xưng kỳ” của Lăng Mông Sơ; sách đời Thanh như “Tam hiệp ngũ nghĩa” của Thạch Ngọc Côn, “Thất hiệp ngũ nghĩa” của Du Việt… đã khắc họa một Bao Thanh Thiên phá án như thần, ngày xử dương gian, đêm phán âm phủ, như một Diêm La Vương tái thế. Những câu chuyện này lan truyền rộng khắp đã khiến hình tượng Bao Công càng lúc càng xa sự thực.
Từ tiểu thuyết, sân khấu đến phim ảnh đều gắn liền hình tượng Bao Công phá các đại án với thời gian làm Phủ doãn phủ Khai Phong. Kỳ thực Bao Công chỉ giữ chức này trong khoảng thời gian hơn một năm và trong chính sử không hề chép chuyện phá án nào của Bao Công trong giai đoạn này. Công lao lớn nhất của Bao Công khi đứng đầu phủ Khai Phong (tương tự Thị trưởng Bắc Kinh ngày nay) là cải cách hành pháp và quy hoạch lại kinh thành để khỏi nạn ngập nước.
Về phá án, trong chính sử chỉ chép hai vụ liên quan đến Bao Công nhưng một ở thời điểm làm tri huyện Thiên Trường và một khi đã đứng đầu Tri gián viện.
Từ đường Bao Công ở An Huy.
Vụ Lãnh Thanh mạo danh Thái tử
Đây là vụ án có thật làm chấn động triều dã, là gốc tích để truyền thuyết dân gian, tiểu thuyết, sân khấu tái chế thành “Ly miêu tráo thái tử”, “Đả long bào” hay “Bao Công xử án Quách Hòe” nổi tiếng mà ai cũng nghe qua.
Nguyên là Vua Tống Nhân Tông Triệu Trinh lên ngôi năm Càn Hưng nguyên niên (1022) lúc 13 tuổi, tại vị đến 42 năm, trong hậu cung lập phi tần mỹ nữ vô số nhưng đáng buồn là không có con nối dõi. Nhân Tông thờ thần Xích Đế trong cung, ngày đêm cầu đảo. Sau đó hậu cung có Lưu Mỹ nhân sinh một trai nhưng không sống được mấy ngày, rồi Miêu Mỹ nhân sinh một trai, cả triều đình vui mừng, Nhân Tông đặt tên hoàng tử là Triết, ý nghĩa là “mặt trời sắp mọc”. Đáng tiếc, Triệu Triết chỉ sống một năm rưỡi thì qua đời. Mãi sau Chu Tài nhân lại sinh một nam, Nhân Tông đặt tên là Hy, ý nghĩa là “ánh thái dương lúc ban mai” và phong hoàng tử bé làm Ngạc Vương. Nhưng Triệu Hy cũng chỉ sống được 3 tuổi rồi qua đời. Triệu Trinh vô cùng đau khổ, và chuyện có hoàng tử nối nghiệp trở thành đại sự của triều đình.
Vào tháng tư năm Hoàng Hựu thứ hai, cả kinh thành bỗng trở nên vô cùng náo nhiệt, ở đâu cũng bàn tán chuyện hoàng tử lưu lạc trong nhân gian giờ đi tìm gặp hoàng đế. Theo đó có một thanh niên tên là Lãnh Thanh, tự xưng là hoàng tử, cùng đi với một đạo sĩ ở Lư Sơn tên Cao Kế An, pháp hiệu Toàn Hỏa Đạo đến khắp lục bộ đòi vào cung gặp vua để nhận tông thân. Lãnh Thanh nói rằng mẹ là Vương thị, vốn là cung nữ trong cung, từng được Vua Nhân Tông lâm hạnh và ban cho “Long phụng tú” tức tấm lụa che bụng lúc ân ái. Lãnh Thanh tướng mạo khôi ngô tuấn tú, cử chỉ khoáng đạt, ăn nói dõng dạc, đến đâu cũng xưng thái tử, lúc nào cũng có đám đông hiếu kỳ vây quanh, thậm chí nhiều quan viên thấy phong thái của Lãnh Thanh cũng sinh lòng nể sợ, cho là “long chủng”?
Lúc ấy, Phủ doãn phủ Khai Phong là Tiền Minh Dật nghe chuyện này bèn cho quân ra bắt về phủ xét hỏi. Nhưng khi vào công đường, Lãnh Thanh nghi biểu đường đường, lớn tiếng quát bảo, Tiền Minh Dật khiếp uy, bất giác cũng đứng lên thi lễ… Lúc này Vua Nhân Tông và các đại thần đã nghe chuyện nhưng nửa tin nửa ngờ, chưa biết xử lý thế nào. Vua vốn có 3 hoàng nam đều đã yểu tử, sao nay lại có hoàng tử nào đây? Số cung nữ nhập và xuất cung hằng năm đều rất đông, ngay hoàng đế cũng không thể xác quyết có hay không trường hợp “lọt sổ” hy hữu này. Vua lại đang khao khát hoàng nam. Nếu đúng là có thì đây là phúc lớn của hoàng triều nhà Tống.
Sau khi suy xét, Tống Nhân Tông truyền chỉ chuyển vụ án này cho quan chưởng quản Tri gián viện là Bao Chửng cùng Hàn Lâm học sĩ Triệu Khái nhanh chóng điều tra.
Bao Công thẩm sát án tình, lập tức cho thân tín giả làm hiệp khách tiếp cận Lãnh Thanh rồi mời đến tửu quán tỏ lòng ngưỡng mộ, dần dần phục rượu cho say để dò hỏi thân thế. Sau đó, Bao Công về đến quê nhà Lãnh Thanh, thăm hỏi những người hàng xóm để xác định nhân thân rồi dựng lại chân dung sự việc này. Đúng như Lãnh Thanh nói, mẹ y là Vương thị vốn là cung nữ, nhập cung năm Thiên Thánh nguyên niên, 3 năm sau thì xuất cung, sau đó kết hôn với một người bán thuốc tên là Lãnh Tự, sinh đứa con gái đầu là Lãnh Diễm, sinh con trai tiếp theo là Lãnh Thanh. Bao Công thẩm vấn Vương thị mới biết Lãnh Thanh từ nhỏ không chịu học hành, ăn chơi lêu lổng, lớn lên không nghề nghiệp, chẳng biết đi phiêu du nơi đâu. Hỏi về tấm “long phụng tú” vua ban, Vương thị tìm không thấy, mới biết là Lãnh Thanh đã cầm đi. Nhưng Bao Công nghi hoặc, Lãnh Thanh là đứa chẳng có học hành, sao có thể nghĩ đến chuyện mạo xưng thái tử là tội khi quân, chắc chắn phía sau có kẻ giật dây. Bèn bí mật điều tra đạo sĩ Toàn Hỏa Đạo – kẻ luôn đi cùng Lãnh Thanh…
Bức họa Bao Công từ đời Tống cho thấy ông không phải mặt đen, trán có vết trăng khuyết như thường thấy.
Sau khi đã lập thế phá án, Bao Công cho bắt hai thầy trò Lãnh Thanh tách riêng ra để thẩm vấn. Khi gặp Bao Công, Lãnh Thanh vẫn dõng dạc xưng mình là hoàng tử. Bao Công hỏi: “Mẹ ngươi đúng là từng ở trong cung, nhưng ngươi rõ ràng là có một chị gái, sao chị ngươi không xưng là công chúa mà ngươi lại dám nhận là hoàng tử?”. Lãnh Thanh cứng họng. Bao Công tiếp tục truy vấn, Lãnh Thanh khiếp uy đành cúi đầu nhận tội là đã nghe theo lời của Cao Kế An. Thì ra khi Lãnh Thanh lang thang đến Lư Sơn, Cao Kế An thấy y dáng vẻ sang cả, lại có trong tay tấm lụa “Long phụng tú” mà vua lại đang khao khát có con nối dõi, bèn nghĩ ngay đến trò đại bịp: giả làm hoàng tử. Nếu sự việc trót lọt, Lãnh Thanh được Vua Nhân Tông nhận trở thành thái tử rồi kế vị hoàng đế thì Cao Kế An chắc chắn sẽ là nhất phẩm đại thần trong triều. Từ đó Cao Kế An huấn luyện cho Lãnh Thanh cách đi đứng, ăn nói thật giống bậc vương giả, ngày ngày đều tập diễn luyện đóng vai hoàng tử cho thuần thục. Lại dặn dò Lãnh Thanh nếu vạn nhất chuyện không thành thì cứ giả dạng điên cuồng là xong. Không ngờ gặp phải Bao Công quá cao tay đã sớm lật tẩy màn kịch.
Chân tướng vụ án đã rõ, Bao Công tấu lên Vua Nhân Tông, Lãnh Thanh và Cao Kế An bị tội chém, còn tri phủ Khai Phong là Tiền Minh Dật bị giáng làm tri phủ Sái Châu.
Vụ án “chiếc lưỡi bò”
Khi Bao Công mới ra làm quan, nhậm tri huyện Thiên Trường, một hôm có người họ Lý đến công đường thưa là tối qua con bò nhà mình bị kẻ nào đó cắt mất lưỡi sắp chết? Theo luật triều Tống lúc ấy, kẻ tự ý giết bò trâu sẽ bị nghiêm trị vì ảnh hưởng đến sức kéo. Trong tiểu thuyết “Thủy Hử” mô tả các hảo hán Lương Sơn vào quán thường kêu mấy cân thịt bò chính là hình thức thể hiện một thái độ xem thường luật pháp đương triều lúc bấy giờ. Bao Công bảo họ Lý cứ về nhà làm thịt để bán kiếm ít tiền, nhưng không được tiết lộ là quan phủ đã cho phép. Người kia về làm theo lời dặn. Đến sáng hôm sau có người họ Trương đến huyện nha tố cáo người họ Lý tự ý giết thịt bò, phạm vào phép nước, đề nghị phải xử. Bao Công liền vỗ án kêu tả hữu bắt ngay tra vấn. Quả nhiên họ Trương chính là hung thủ đã cắt lưỡi bò nhà họ Lý để vu họa nhằm trả mối thù hiềm khích giữa hai nhà.
Còn những vụ xử án nổi tiếng khác của Bao Công như “Chém Bao Miễn”, “Xử án Trần Thế Mỹ”, “Trảm Bàng Dục”… thì đều là tuồng tích “diễn dịch”, kiểu “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Như tra hết gia phả cũng như khu mộ gia tộc họ Bao không thấy có ai tên Bao Miễn. Bao Công lại là con một, không có anh em nên không thể có cháu ruột. Còn Trần Thế Mỹ là nhân vật có thật nhưng lại ở vào đời… Thanh, cách Bao Công đến hơn 600 năm.
Gia huấn của Bao Công.
Tiểu thuyết, sân khấu dân gian cũng làm điên đảo trắng đen, ngay gian lẫn lộn. Khiến cho người đời sau không biết đâu mà lần? Chẳng hạn như nhân vật phản diện “Bàng Thái sư” tuy được lấy nguyên hình từ gian thần Trương Nghiêu Tá, nhưng tai tiếng thì Bàng Tịch lãnh đủ. Bàng Tịch (988-1063) là trung thần, tài giỏi, đậu tiến sĩ năm 1015, là thầy của Địch Thanh, Tư Mã Quang, bạn của Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, làm quan đến Khu mật sứ - tương đương tể tướng, nhiều lần thẳng thắn can gián vua và ái phi, được gọi là “Thiên tử Ngự sử”. Ông có con là Bàng Nguyên Anh, cháu là Bàng Cung Tôn đều làm quan, không có ai là Bàng Dục phạm tội bị Bao Công chém cả?
Theo Tống sử, Bao Chửng tự là Hy Nhân, sinh năm 999 tại Giải Tập, huyện Đông, Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy). Cha là Bao Lệnh Nghi từng làm tri huyện Huệ An ở Phúc Kiến. Bao Công từ nhỏ ham học. Khoa thi năm Thiên Thánh thứ 5 (năm 1027), Bao Công đậu tiến sĩ, được bổ làm tri huyện Kiến Xương, nhưng vì cha mẹ già yếu nên Bao Công từ quan, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, nổi tiếng là người con hiếu thảo. 10 năm sau cha mẹ qua đời, cư tang thủ hiếu xong Bao Công lúc ấy 38 tuổi mới bước ra chính trường.
Như vậy, Bao Công ra làm quan muộn lại ngắn, tính cho đến lúc qua đời (1063) chỉ có 27 năm. Trong thời gian ấy công việc rất đa dạng: làm Tri huyện Thiên Trường; Tri phủ Đoan Châu, Doanh Châu, Dương Châu, Lư Châu, Triệu Châu; Tri phủ Giang Ninh rồi Phủ doãn phủ Khai Phong, nắm giữ toàn bộ việc hình pháp, trị an trong kinh thành. Bao Công nhận mệnh đi sứ Khiết Đan, rồi về kinh làm Lễ bộ Thị lang, Tam ti Hộ bộ… Trước sau gánh vác công việc ở các bộ Công, Hình, Binh, Lễ.
Chức vụ lớn nhất của Bao Công trước khi qua đời là Khu mật Phó sứ, tương đương phó tể tướng, vị trí rất quan trọng trong cơ quan quyền lực tối cao của triều Tống. Sau ông được phong hàm Thiên Chương các đãi chế, Long Đồ các trực học sĩ, Khu mật trực học sĩ.
Tuy vậy, Bao Công vẫn chỉ ở hàm nhị phẩm, chưa bao giờ là tướng gia, không có quyền tiền trảm hậu tấu bằng ba khẩu Long-hổ-cẩu đầu đao tự chế như trong truyện hay trên sân khấu. So về chức vụ trong triều Bắc Tống, Bao Công còn kém xa so với Phú Bật, Hàn Kỳ, Văn Ngạn Bác; về văn chương chữ nghĩa, Bao Công không thể bằng những danh nhân lừng lẫy như Âu Dương Tu, Tư Mã Quang, Tô Đông Pha; về quân sự, lý luận và đường lối cải cách triều chính, Bao Công khó sánh được với Bàng Tịch, Vương An Thạch, Phạm Trọng Yêm. Bao Công có hình ảnh như ngày nay, là nhờ… phim ảnh!