Khi quan hệ tình dục bằng đường miệng - hậu môn với người mắc bệnh, bạn sẽ dễ dàng bị lây bệnh. Triệu chứng của viêm gan virus A thường xuất hiện sau khi phơi nhiễm với virus khoảng 28 ngày, bao gồm: sốt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, chán ăn, vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, khó chịu hoặc đau vùng bụng. Không có cách điều trị đặc hiệu nào với virus viêm gan A, bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi 1 - 4 tuần và tránh quan hệ tình dục.
Người nhiễm virus viêm gan B có thể lây truyền sang cho người lành qua tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo khi quan hệ tình dục bằng miệng. Viêm gan virus B thường ít hoặc không có biểu hiện. Một số triệu chứng thường gặp là: nổi ban, đau cứng khớp, sốt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, chán ăn, vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, đau hoặc khó chịu vùng bụng…
Hiện chưa có điều trị đặc hiệu cho viêm gan virus B. Đối với viêm gan virus B cấp tính đa số bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn sau một khoảng thời gian. Với viêm gan virus B mạn tính bác sĩ sẽ chỉ định thuốc để làm chậm quá trình phát triển của virus cũng như hỗ trợ hệ miễn dịch. Viêm gan virus B có thể tiến triển mạn tính, có nguy cơ dẫn tới xơ gan, ung thư gan, đe dọa tính mạng người bệnh. Tiêm phòng là một phương pháp giúp phòng tránh bệnh.
Virus gây u nhú ở người (HPV)
Người mắc HPV ở sinh dục, hậu môn, trực tràng, miệng, họng có thể lây sang người lành qua quan hệ tình dục bằng miệng. Khi có những dấu hiệu như mụn cóc sinh dục hoặc hậu môn, mụn cóc trong khoang miệng, họng thì cần nghĩ tới việc có thể đã mắc HPV. Một số bệnh nhân còn cảm thấy khó thở hoặc khó phát âm. HPV có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Tuy nhiên có trường hợp, ngay cả khi điều trị mụn cóc sinh dục, HPV vẫn không thể bị loại trừ, do đó bệnh nhân vẫn có thể lây truyền HPV sang người khác.
Herpes
Là một bệnh truyền nhiễm do virus herpes simplex gây ra. Người nhiễm herpes ở miệng, khu vực sinh dục, trực tràng và hậu môn có thể lây sang người lành qua quan hệ tình dục bằng miệng. Khi mắc herpes thường không có biểu hiện ra bên ngoài hoặc nếu có thì rất nhẹ. Những triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện sau khi nhiễm gồm: đau ngứa, loét xung quanh khu vực sinh dục, trực tràng hoặc miệng, đau đầu, sốt, đau thân mình, hạch sưng đau. Nhiễm herpes làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Phụ nữ mang thai nhiễm herpes có thể lây truyền sang con.
Người nhiễm herpes ở miệng, khu vực sinh dục, trực tràng và hậu môn có thể lây sang người lành qua quan hệ tình dục bằng miệng. |
Bệnh lậu
Khi mắc lậu, không phải lúc nào cũng có dấu hiệu biểu hiện ra ngoài. Các triệu chứng điển hình của bệnh lậu là: cảm giác bỏng rát khi đi tiểu, đau họng, tiết dịch bất thường từ âm đạo, dương vật, hoặc trực tràng - hậu môn, sưng đau tinh hoàn, đau trực tràng. Bệnh lậu có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng với người bị bệnh lậu ở họng, âm đạo, dương vật, đường niệu hoặc trực tràng - hậu môn.
Nếu bệnh lậu không được điều trị đúng cách, các biến chứng phức tạp có thể xảy ra bao gồm tăng nguy cơ nhiễm HIV, vô sinh ở nữ giới, viêm mào tinh hoàn ở nam giới.
Đây là một bệnh nhiễm khuẩn thường gặp do chlamydia trachomatis gây ra. Chlamydia có thể lây truyền từ người bệnh (mắc chlamydia ở họng, âm đạo, dương vật, trực tràng - hậu môn) sang người lành qua quan hệ tình dục bằng miệng.
Thường khi mắc chlamydia bệnh nhân không biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên nếu bị chlamydia ở họng thì có thể có đau họng. Nếu bị chlamydia ở các bộ phận khác như trực tràng - hậu môn, bộ phận sinh dục hay đường niệu thì các dấu hiệu có thể gặp là: dịch tiết bất thường như dịch máu, tiết ra từ âm đạo, dương vật, hoặc trực tràng - hậu môn; cảm giác bỏng rát khi đi tiểu, đau trực tràng, sưng đau tinh hoàn.
Nếu bị chlamydia ở họng thì có thể đau họng. |
Chlamydia có thể điều trị khỏi hoàn toàn với kháng sinh, do đó cần điều trị càng sớm càng tốt để hạn chế nguy cơ lây nhiễm cho bạn tình. Nếu không điều trị, các nguy cơ phải đối mặt bao gồm: vô sinh ở nữ giới, viêm mào tinh hoàn ở nam giới, tăng nguy cơ lây nhiễm HIV, lây bệnh sang cho con (nếu mẹ mắc chlamydia khi mang thai).
Giang mai
Là bệnh nhiễm khuẩn do xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum gây ra. Giang mai có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng với người mắc bệnh, đặc biệt là khi có sự tiếp xúc trực tiếp với săng giang mai hoặc nốt ban. Bệnh giang mai trải qua bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn có những triệu chứng riêng biệt. Khi bệnh ở giai đoạn 2 rầm rộ sẽ có những dấu hiệu đặc trưng như: nổi ban rải rác thân mình, sưng đau hạch, sốt, đau họng, đau bộ phận sinh dục hoặc hậu môn, xuất hiện các chấm nâu đỏ trong lòng bàn tay, bàn chân, sụt cân, mệt mỏi… Khi giang mai ở giai đoạn 4 (hiếm gặp), bệnh nhân sẽ đối mặt với những biến chứng phức tạp như tổn thương nội tạng, sụt giảm thị lực. Giang mai thần kinh xảy ra khi bệnh lan tới não và hệ thần kinh. Người bị giang mai thần kinh sẽ có cảm giác đau đầu, khó cử động cơ thể, mất cảm giác, sa sút trí tuệ…
Nếu không được điều trị, giang mai giai đoạn 4 có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Trichomoniasis
Là bệnh nhiễm khuẩn hay gặp do kí sinh trùng gây ra. Người bị mắc trichomoniasis ở âm đạo hoặc dương vật sẽ lây nhiễm sang người lành qua quan hệ tình dục bằng miệng. Người bị lây nhiễm sẽ mắc trichomoniasis ở vùng họng. Các triệu chứng có thể gặp là: tiết dịch bất thường từ âm đạo hoặc dương vật, âm đạo đỏ tấy, đau ngứa xung quanh, cảm giác bỏng rát khi đi tiểu. Trichomoniasis có thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng một liều kháng sinh duy nhất. Để tránh tái nhiễm, đừng quên điều trị cho cả bạn tình.