Đọc được thứ chữ này chỉ có các nhà nho và quan lại, bởi lúc đó hơn chín mươi chín phần trăm dân cư mù chữ. Chỉ đến khi vua Khải Định ra đạo dụ ngày 26 tháng 11 năm Mậu Ngọ (28/12/1918) bãi bỏ các khoa thi lều chõng cử tử, đưa chữ Quốc ngữ vào nhà trường, chữ Việt hiện đại mới chính thức được phổ cập và phát triển trên toàn xứ sở.
Sự thần kỳ nào đã giúp người Việt thoát thứ chữ tượng hình hàng nghìn năm bao quấn tư duy và tự tôn dân tộc để có một hệ ký tự Latin hiện đại, để rồi một trăm năm qua khởi phát giao hòa đông tây, kết nối đồng bào, khuếch tán văn hóa với toàn nhân loại?
Hãy làm một cuộc ngược dòng, tìm đến nguồn cội của chữ Quốc ngữ.
I. MỘT ĐẤT NƯỚC KỲ BÍ
Đất nước Iran trông tựa như một chiếc lá phong bay phần phật giữa vùng Tây Á và Nam Á, kẹp giữa hai biển, phía bắc là Caspi ( Lý Hải), phía nam là vịnh Pecxich. Bay trên trời, tưởng tượng Airbus đang là chiếc thảm bay, từ Istanbul đến Teheran, nhìn xuống, chỉ thấy bao la một vùng cao nguyên khô cằn màu đất gan gà. Đi đường bộ dọc bắc nam từ bờ Caspi đến bờ vịnh Pecxich cũng điệp trùng những dải núi như được nung đốt thành sành gốm và mênh mông hoàng thổ. Hiếm hoi lắm mới gặp một vạt xanh. Đúng hơn là những chấm xanh.
Thăm xưởng chạm bạc
Đất đai ấy, mà sao từ hơn ba ngàn năm trước đã tạo nên những đế chế của người Media và người Babylon cổ đại, để rồi đến thế kỷ thứ VII trước công nguyên (CN), hợp thành đế chế Achamenes của người Aryan với vua Syrus đại đế, tiền thân của đế quốc Ba Tư hùng mạnh về sau. Đất đai ấy mà thảng hoặc lại bắt gặp những thành quách đền đài, nơi bị thời gian vùi lấp, nơi hầu như còn nguyên vẹn, nguy nga tráng lệ. Và âm u trong gió, bảng lảng trong mây là những câu chuyện huyền hoặc của một nghìn lẻ một đêm và những tấm thảm bay kỳ ảo.
Giữa vùng hoang mạc khô cằn và kì bí ấy, tưởng rằng chẳng có gì dính líu đến nước Việt viễn đông xa xôi, nào ngờ có hai sự kiện mà hậu thế bây giờ mới giật mình.
Ấy là vào năm 1255, khi vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn tiến qua vùng Trung Á, đế quốc Ba Tư bị khuất phục. Hulagu, cháu nội của Hốt Tất Liệt trở thành thái thú Ba Tư, lập tức thành lập đội quân viễn chinh người bản xứ, theo gót quân Nguyên Mông đi chinh phục thế giới. Ba lần quân Nguyên tiến đánh Đại Việt (1258, 1285 và 1287), hai lần sau đều có tướng Ô Mã Nhi.
Ở cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, thủy quân Ô Mã Nhi đã làm mưa làm gió vùng hạ lưu sông Hồng, sông Thái Bình, có lúc dồn đuổi thủy quân Trần Hưng Đạo về Vạn Kiếp, có lúc bao vây thành Thăng Long, truy sát vua tôi nhà Trần xuống Xuân Trường, khiến vua Trần lo lắng hỏi Trần Hưng Đạo có nên hàng giặc không?
Và Hưng Đạo Vương đã nói câu bất hủ: “Nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy chém đầu thần đi đã”. Rồi Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng và vua về Ba Chẽ, Quảng Ninh để lừa giặc trước khi vòng vào xứ Thanh, thoát lưới vây bủa của Ô Mã Nhi, chờ lúc phản công, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Những ngày nguy nan ấy, một loạt quan quân nhà Trần đã ra hàng giặc, như hoàng tử Trần Ích Tắc, hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiên…
Cuộc xâm lược lần thứ ba, Ô Mã Nhi đã được phong chức Bình chương sự, cùng Phàn Tiếp dẫn thủy binh vào cửa Bạch Đằng. Và trận thủy chiến lừng danh nhất trong lịch sử quân sự nước Việt (và cả thế giới) đã được Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương dàn trận. Trước đó ở Vân Đồn, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã tiêu diệt Trương Văn Hổ và toàn bộ hạm đội hậu cần tiếp viện. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ cùng hơn bốn trăm chiến thuyền giặc lọt vào trận địa phục kích và bị đốt cháy. Phàn Tiếp bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Trận đánh thần sầu ấy diễn ra vào tháng tư năm Mậu Tý, 1288.
Tướng Ô Mã Nhi này, phải chăng chính là Omar, người Ba Tư?
Nhà sử học Ba Tư nổi tiếng thế kỷ XIII là Fazi Allah Radsidud có thể đã đi trong đoàn quân ấy, đã biết Omar, hoặc được nghe kể, để rồi đã ghi lại trong sử biên niên về xứ Giao Chỉ (Kiafka) thời ấy: …“ Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây… Nước đó có quốc vương riêng không thần phục Hãn (vua Mông Cổ).
Con trai của Hãn là Thoát Hoan (Tugan)chỉ huy đội quân bảo vệ miền Manzi cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tugan mang quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đây một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và lại về đóng ở Lukin Fu ( Nam Kinh)…
Đọc mà sướng âm ỉ. Ngay từ thế kỷ XIII chiến thắng của quân dân nhà Trần Đại Việt ta đã ngân vang trong sử sách Iran.