ADCC là đơn vị được Thủ tướng Chính phủ giao tư vấn các phương án điều chỉnh quy hoạch nhằm mở rộng, nâng cấp cảng hàng không Tân Sơn Nhất.
4 yêu cầu đối với việc cải tạo, nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất.
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nêu 4 yêu cầu đối với việc cải tạo, nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất.
Thứ nhất là phải thực hiện thật nhanh để có thể để khắc phục ngay tình trạng ùn tắc “từ trên trời xuống dưới đất, từ trong ra ngoài” như hiện nay. Theo Phó Thủ tướng không thể chọn phương án thi công kéo dài 3-5 năm hoặc lâu hơn. Mọi công đoạn thực hiện đầu tư nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất phải được thực hiện nhanh nhất, ngay trong năm 2017, để năm 2018 có thể đưa vào sử dụng được.
Thứ hai là chi phí đầu tư phải rẻ nhất nhưng đảm bảo hiệu quả. Phó Thủ tướng cho biết vốn đầu tư công hiện đang rất khó khăn, do đó phải hạn chế ở mức thấp nhất nguồn vốn Nhà nước. Thay vào đó cần có giải pháp để khuyến khích xã hội hoá, huy động vốn của các doanh nghiệp cho đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng đầu tư, giảm thất thoát.
Yêu cầu thứ ba là phải đảm bảo chất lượng công trình và phải đảm bảo chất lượng về mỹ quan, cảnh quan, môi trường.
Cuối cùng là phải đảm bảo an toàn cả trong quá trình đầu tư xây dựng, khai thác, sử dụng công trình; đảm bảo an toàn, an ninh hàng không.
6 phương án mở rộng, nâng cấp Tân Sơn Nhất
Trước đó, tại cuộc họp ngày 20-1, ADCC đã trình bày 3 phương án mở rộng, nâng cấp Tân Sơn Nhất. Kết luận cuộc họp này, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị bổ sung thêm các phương án quy hoạch theo hướng mở rộng phát triển về phía Bắc (khu vực sân golf và một số đơn vị quân đội hiện nay).
Tại cuộc làm việc ngày 9-2, ADCC đã hoàn thiện 3 phương án trước đó và báo cáo thêm 3 phương án 2B, 2C, 2D theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng.
Theo đó, phương án 2B sẽ xây dựng đường cất hạ cánh (đường băng) số 3 về phía Bắc, xây dựng các đường lăn thoát nhanh nối giữa đường băng mới và sân đỗ, xây dựng nhà ga T4 ở phía Bắc, nhà ga lưỡng dụng T3 ở phía Nam... Phương án này có thể nâng công suất Tân Sơn Nhất lên 48-50 triệu hành khách/năm, chi phí khoảng 93.000 tỷ đồng, xây dựng trong 10-12 năm.
Phương án 2C cũng giống phương án 2B nhưng xây dựng nhà ga T4 công suất lớn hơn, khoảng 25-30 triệu lượt hành khách/năm nhằm nâng công suất Tân Sơn Nhất lên 68-70 triệu lượt hành khách/năm, tiêu tốn khoảng 131.000 tỷ đồng, xây dựng trong hơn 15 năm.
Phương án 2D là xây dựng thêm nhà ga T5, nâng tổng công suất Tân Sơn Nhất lên 78-80 triệu khách/năm. Thời gian xây dựng của phương án này là trên 15 năm, với kinh phí khoảng 185.500 tỷ đồng.
Tại cuộc làm việc, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu ADCC tiếp tục hoàn thiện các phương án đã báo cáo. Đồng thời bổ sung phương án 3B theo hướng xây dựng các đường lăn thoát nhanh và đường lăn song song giữa hai đường băng, cải tại đường băng 25L/07R như phương án 3 đã trình bày trước đó nhưng xây dựng nhà ga hành khách với công suất 43-45 triệu hành khách/năm ở phía Bắc (khu vực sân golf hiện nay) để từ đó có cơ sở so sánh, lựa chọn một cách chính xác nhất.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh: các phương án phải được xây dựng thực sự khoa học, khách quan, có sự so sánh, đối chiếu một cách rõ ràng để có sự cân nhắc, lựa chọn tối ưu nhất dựa trên các tiêu chí nêu trên.Phó Thủ tướng lưu ý đơn vị tư vấn đặc biệt chú ý giao thông kết nối với sân bay.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu đơn vị tư vấn khẩn trương hoàn thiện các phương án trước ngày 25-2-2017 để báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, Bộ GTVT cần chủ trì để tách thành các dự án, đề xuất cơ chế đầu tư, xác định rõ nguồn vốn cho từng hạng mục để ngay khi được phê duyệt có thể triển khai ngay được.
“Khi hoàn thiện được các phương án, cần công khai cho mọi người dân được biết”, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị.
6 phương án nâng cấp Tân Sơn Nhất
Phương án 1: xây dựng mới toàn bộ hệ thống đường băng cất hạ cánh, đường lăn, sân đỗ, nhà ga và các công trình phụ trợ trên diện tích khu vực sân golf phía bắc Tân Sơn Nhất và giải phóng thêm các khu vực dân cư xung quanh để bảo đảm khai thác. Đây là phương án có thể nâng tổng công suất Tân Sơn Nhất hiện nay 25 triệu hành khách/năm ( năm 2016 đã đạt 32 triệu hành khách) lên khoảng 60 triệu khách năm, cần từ 10 đến 15 năm xây dựng, giải toả hơn 140.000 hộ dân, chi phí dự kiến khoảng 201.350 tỷ đồng.
Phương án 2: xây dựng đường lăn song song và các đường lăn nối giữa đường băng hiện nay và sân đỗ; xây dựng đường lăn thoát nhanh và đường lăn song song giữa 2 đường băng, cải tạo đường băng phía bắc hiện nay (đường 25L/07R). Đồng thời xây dựng đường lăn song song và sân đỗ máy bay phía bắc, xây dựng nhà ga lưỡng dụng (quân sự - dân sự) T3 công suất 10 triệu hành khách, xây dựng nhà ga hành khách T4 công suất 10 triệu hành khách để nâng công suất Tân Sơn Nhất lên khoảng 43-45 triệu hành khách/năm. Phương án này cần khoảng 61.000 tỷ đồng, thời gian xây dựng từ 8-10 năm.
Phương án 2B: xây dựng đường cất hạ cánh số 3 về phía Bắc, xây dựng các đường lăn thoát nhanh nối giữa đường cất hạ cánh mới và sân đỗ, xây dựng nhà ga T4 ở phía Bắc, nhà ga lưỡng dụng T3 ở phía Nam... Phương án này có thể nâng công suất Tân Sơn Nhất lên 48-50 triệu hành khách/năm, chi phí khoảng 93.000 tỷ đồng, xây dựng trong 10-12 năm.
Phương án 2C: giống phương án 2B nhưng xây dựng nhà ga T4 công suất lớn hơn, khoảng 25-30 triệu lượt hành khách/năm. Phương án này sẽ nâng công suất Tân Sơn Nhất lên 68-70 triệu lượt hành khách/năm, tiêu tốn khoảng 131.000 tỷ đồng, xây dựng trong hơn 15 năm.
Phương án 2D: xây dựng thêm nhà ga T5, nâng tổng công suất Tân Sơn Nhất lên 78-80 triệu khách/năm. Thời gian xây dựng trên 15 năm, với kinh phí khoảng 185.500 tỷ đồng.
Phương án 3: là xây dựng đường lăn song song và các đường lăn nối giữa đường băng và sân đỗ; xây dựng đường lăn thoát nhanh và đường lăn song song giữa 2 đường băng; cải tạo đường băng phía bắc hiện nay (đường 25L/07R); xây dựng nhà ga lưỡng dụng T3, công suất 10 triệu hành khách/năm, xây dựng nhà ga hành khách T4, công suất 10 triệu khách/năm ở khu vực phía nam sân bay hiện nay. Với phương án này, do sử dụng quỹ đất sẵn có của quân đội nên sẽ chỉ mất khoảng 19.700 tỷ đồng và thời gian xây dựng không quá 3 năm, trong khi vẫn bảo đảm được công suất từ 43-45 triệu hành khách/năm.