Tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025 của Bộ Thông tin và Truyền thông, ông Tào Đức Thắng chia sẻ, đến năm 2030, Viettel đặt mục tiêu làm chủ 100% thiết kế và sản xuất các sản phẩm chip phục vụ quốc phòng an ninh và một số loại chip chuyên dụng đột phá thế hệ mới như chip AI, chip IoT.
Đến năm 2028, mạng 5G Viettel cũng được phủ sóng trên toàn quốc. Đến năm 2030 đưa vào sử dụng bốn tuyến cáp quang biển mới trong đó có ít nhất một tuyến do Viettel làm chủ, triển khai mới 11 Trung tâm dữ liệu quy mô lớn với tổng công suất dự kiến trên 350MW, chiếm trên 40% tổng công suất của các trung tâm dữ liệu tại Việt Nam.
Viettel cũng sẽ hợp tác với NVIDIA triển khai hạ tầng Trung tâm dữ liệu quy mô lớn với máy chủ hiệu năng cao phục vụ nhu cầu bùng nổ các ứng dụng AI với gần 800 siêu máy tính và 6000 card GPU.
Ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel. |
Theo ông Tào Đức Thắng, Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với các mục tiêu, giải pháp rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Viettel đề xuất 5 giải pháp hiện thực hoá Nghị quyết 57, trong đó có việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu KHCN thông qua triển khai cơ chế thí điểm chính sách miễn trừ để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới.
Ông Thắng cho rằng, tính chất dự án đầu tư mạo hiểm là độ rủi ro cao, tỷ lệ thành công thấp nhưng nếu thành công sẽ có lợi nhuận lớn, bù đắp được chi phí bỏ ra, thúc đẩy phát triển các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới. “Vì vậy, đây sẽ là chủ trương đột phá cho phép các doanh nghiệp nhà nước như Viettel mạnh dạn nghiên cứu thử nghiệm, làm chủ và đưa vào áp dụng các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới”, ông Thắng nói.
Chủ tịch Viettel cũng đề xuất lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ sớm có hướng dẫn sử dụng nguồn ngân sách đề ra trong Nghị quyết 57 để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu phát triển.
Tại mục 1, phần II của Nghị quyết xác định mục tiêu đến năm 2030, kinh phí cho nghiên cứu phát triển đạt 2% GDP, xấp xỉ 9 tỷ USD/năm. Đây là một khoản ngân sách lớn sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam.
Ông Thắng chia sẻ tại Viettel, với kinh phí được trích cho nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ khoảng hơn 10 nghìn tỷ đồng ~ 45 triệu USD/năm, Tập đoàn đã hoàn thành được nhiều dự án quan trọng do Đảng, Nhà nước, Quân đội giao như nghiên cứu sản phẩm 5G, 5G lõi, các sản phẩm cho công nghiệp quốc phòng.
Đại diện Tập đoàn Viettel cũng nhấn mạnh, việc đầu tư cho KHCN nên tập trung nguồn lực cho các dự án nghiên cứu công nghệ đóng vai trò nền tảng, bao trùm như công nghệ bán dẫn, vệ tinh tầm thấp, công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, không nên phân tán, phân mảnh.
Bên cạnh đó, Viettel đề xuất triển khai cơ chế đặc biệt trong nghiên cứu, tiếp cận, mua bán các bí mật công nghệ, công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
“Theo kinh nghiệm của chúng tôi, cái khó nhất hiện nay là đánh giá và xác định giá trị của các công nghệ này do đây là công nghệ đặc thù, độc quyền rất khó tham chiếu và so sánh”, ông Thắng nêu và đề nghị Chính phủ, các bộ ngành hướng dẫn về nguyên tắc đánh giá và xác định giá trị của công nghệ trong quá trình chuyển giao bí mật công nghệ tiên tiến của nước ngoài.