> Đảm bảo công bằng trong khám chữa bệnh
Tiền Phong trân trọng giới thiệu bài viết của cụ Vũ Đình Hòe (1912 - 2011), nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Việt Nam DCCH về người bác sĩ tiết liệt ấy. Di cảo do gia đình cụ Hòe cung cấp.
Với bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, dầu nghe danh đã lâu, tôi chỉ trực tiếp quen biết từ khi nhà tôi có mang đứa con đầu lòng. “Con đầu, cháu sớm”, vợ tôi lại nhỏ yếu nên mẹ tôi lo lắm. Tôi nói cứng để bà yên lòng:
- Mẹ khỏi lo. Con có “cẩm nang” đây rồi!
Và chìa cho bà xem cuốn sách Sản dục chỉ nam của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện. Bà bĩu môi, lẩm bẩm: “Cái lũ dẫm phải cứt Tây!”. Nhưng đến khi tôi đọc cho vợ nghe các biện pháp tẩm bổ và lời khuyên dưỡng thai của bác sĩ Luyện thì thấy bà chăm chú lắng nghe, rồi khen: “Cái nhà ông này viết được đấy”.
Bố tôi, thời ấy vừa được bầu làm Trưởng phả Thiện đền Ngọc Sơn, góp chuyện: “Xưa, các cụ trong hội Hướng Thiện cũng có khắc in sách Đại sinh chỉ yếu tương tự, nhưng ông này mới hơn, kết hợp cả y khoa Á - Âu”, rồi hứng chí, ông ngâm hai câu trong bài thơ của mình về đền Ngọc Sơn, hồi đầu thế kỷ từng được Đông Kinh Nghĩa Thục dùng làm một diễn đàn chính:
Lên cầu Thê Húc đứng mà trông
Gió Á mưa Âu cảnh lạ lùng…
Tôi tìm gặp bác sĩ Luyện để được chỉ bảo thêm. Ông đưa tôi đọc bản luận văn hoàn thành trong những năm du học ở Paris, nghiên cứu về nguyên nhân tử vong sớm của trẻ sơ sinh ở nước ta. Vốn sợ nghề y từ nhỏ, cả đời tôi chưa bao giờ động đến sách y học.
Nhưng bản luận văn của bác sĩ Luyện tôi đã đọc một cách say mê vì ông đề cập sâu sắc những nguyên nhân xã hội của cái ông gọi là “thảm trạng”: tỷ lệ tử vong cao “khủng khiếp” (những chữ chính ông dùng) ở trẻ sơ sinh Việt Nam.
Trước, tôi đã nghe bạn bè nói nhiều về ông bác sĩ thường lặn lội những vùng “ma thiêng nước độc”, hoặc như ngày nay ta nói “vùng sâu vùng xa”, để khám, chữa bệnh, phổ biến kiến thức vệ sinh tối thiểu về thai nghén, sinh nở cho phụ nữ thôn quê, chiến đấu thực sự với những hủ tục dẫn đến tử vong của ấu nhi ngay trong năm đầu đời.
Bây giờ đọc luận văn, tôi thực sự khâm phục tấm lòng vàng vì dân nghèo của ông: từ thuở tôi còn mài đũng quần ở trường Bưởi, ngay từ khi làm bản luận văn của mình giữa Paris hoa lệ, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện đã viết ra lời thề Hippocrates1 của riêng ông: trở về Việt Nam hiến dâng tất cả sức lực, cả cuộc đời để chống lại tai họa cướp đi mạng sống của trẻ thơ nghèo khó.
Nguyễn Văn Luyện là bác sĩ đầu tiên mở bệnh viện tư ưu tiên khám chữa bệnh cho người nghèo. Ngôi nhà 167 phố Phùng Hưng - Hà Nội trở nên nổi tiếng với cái tên dễ thương: Nhà thương Ngõ Trạm. Để truyền bá rộng rãi quan điểm y học xã hội của mình, ông ra báo Tin mới, một tờ báo bán rất chạy ở Hà Nội thời ấy do xu hướng tiến bộ và cập nhật tin sốt dẻo, in ấn đẹp.
Quan điểm xã hội tiến bộ sớm đưa bác sĩ Luyện đến với phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ. Nếu tôi nhớ không nhầm thì tờ báo của ông (Tin Mới hay Dân Quốc?) là tờ báo công khai đầu tiên ở Hà Nội cho đăng 10 chính sách của Việt Minh.
Ông gia nhập đảng Dân chủ, trở thành đồng chí của tôi trong Trung ương Đảng. Hai tháng sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập và ra mắt Chính phủ Nhân dân lâm thời, Hồ Chủ tịch đề nghị lập một Ban cố vấn giúp rập cho Người gồm 10 nhân sĩ uy tín nhất.
Trong 6 vị đầu tiên do chính Người đề cử, có bác sĩ Nguyễn Văn Luyện. Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên ngày 6-1-1946, ông được bầu làm 1 trong 6 đại biểu của Hà Nội, được cử vào Ủy ban Thường trực Quốc hội.
Những trọng trách liên tục được trao chứng tỏ sự tín nhiêm đặc biệt của Hồ Chủ tịch đối với bác sĩ Luyện: thành viên Phái đoàn đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt, cố vấn trong Phái đoàn đàm phán tại Hội nghị Fontainebleau.
Trong tình hình cực kỳ căng thẳng hồi cuối năm 1946 khi thực dân Pháp luôn luôn gây hấn, kích động các đảng phái phản động chống Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, Nguyễn Văn Luyện mau lẹ viết và cho in một cuốn sách nhỏ, lên án chính sách thuộc địa mới của Chính phủ De Gaulle và phanh phui thủ đoạn phỉnh phờ lôi kéo giới trí thức Việt Nam, hòng lập lại nền thống trị của Pháp.
Cuốn sách nhỏ của ông như quả tạc đạn ném thẳng vào hàng ngũ vốn đã hỗn loạn của chúng, khiến chúng vô cùng tức tối. Lo lắng bọn thực dân hiếu chiến và bè lũ phản động có thể manh động trả thù, Hồ Chủ tịch thông qua anh Hoàng Minh Giám, lúc ấy đang giữ chức Thứ trưởng Nội vụ và là bạn thân của bác sĩ Luyện, đề nghị cho tổ chức đưa cả gia đình ông tản cư ra vùng an toàn ở ngoại thành.
Tôi cũng nói góp thêm vào. Ông trả lời trang nghiêm như một lời thề: “Hai con trai tôi, sinh viên y khoa, là tự vệ thành, đã quyết tử thủ. Tôi là bác sĩ, quyết không rời chiến sĩ”.
Sang tháng Chạp 1946 chiến sự có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào. Một chập tối anh Chính, người chịu trách nhiệm đưa các ủy viên trung ương Dân chủ rời Hà Nội, tự tay lái xe hơi đến cơ quan Bộ Tư pháp, cấp tốc đưa gia đình tôi ra vùng ngoại thành.
Anh rỉ tai tôi: “Ông Luyện không chịu đi, ba cha con với khẩu súng máy cố thủ trong nhà. Ông cho vợ và 3 con gái tản cư rồi”.
Khoảng 8 giờ tối 19-12-1946, điện thành phố phụt tắt. Tiếng đại bác từ pháo đài Láng của ta gầm vang, bắt đầu cuộc Toàn quốc Kháng chiến. Ngay đêm hôm sau, tôi được anh Vũ Bội Liêu, “Zet-tê” (giao thông liên lạc) của Văn phòng bộ Tư pháp, thoát ra từ khu vực Tòa án đối diện với nhà bác sĩ Nguyễn Văn Luyện (nay là Sứ quán Cuba), báo cáo cho biết bác sĩ Luyện cùng 2 con trai đã chống trả đến viên đạn cuối cùng, bị bọn Pháp xông vào hạ sát.
Đúng hai tháng sau, đêm 30 Tết 1947 Hội đồng Chính phủ họp tại thôn Sài Sơn, sát nách chùa Thầy, cách nội thành Hà Nội chỉ hai chục cây số. Tôi được anh Chính báo đến hang Thánh Hóa trước cuộc họp 1 tiếng. Còn đang tần ngần trước cửa hang thì đã thấy một “lão nông” men đường hẻm sau núi bước ra.
Cụ quàng khăn bông đầy cổ, chống gậy tre vì đường trơn sau mấy ngày liên miên mưa dầm. Hồ Chủ tịch! Tôi cúi đầu chào. Cụ nắm tay tôi, vào đề luôn: “Trung ương Dân chủ hiện đóng ở đâu? Tôi nghe báo cáo các chú ngưng sinh hoạt, bảo hòa mình vào các tổ chức Việt Minh là ý tứ thế nào?
Chính lúc này mới cần đến các chú đấy!” Rồi Cụ hỏi thăm về gia đình bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, giọng bùi ngùi, hẳn là nhớ đến sự hy sinh oanh liệt của ba cha con ông...
Tôi vội báo cáo với Cụ việc Trung ương Dân chủ vừa cử người đại diện về quê thăm, chúc Tết chị Luyện. Bà đang công tác trong Hội Bà mẹ chiến sĩ huyện, các con gái dạy giúp lớp Bình dân học vụ ở xã… Cụ vui vui.
Nhiều năm sau chiến tranh Hồ Chủ tịch còn quan tâm đến gia đình người bác sĩ đã tận hiếu với dân, tận trung với nước. Người ra những chỉ thị trực tiếp để các con gái bác sĩ Luyện được ăn học đến nơi đến chốn và có công ăn việc làm thuận lợi.
Từ sau Đổi mới và mở cửa Hà Nội ồ ạt xây dựng, mở rộng và đặt tên nhiều đường phố mới. Nhưng phải chăng người ta đã quên gương hy sinh lẫm liệt vì Thủ đô ngàn năm của ba cha con bác sĩ Nguyễn Văn Luyện?
Tôi ước sao đến một ngày tại Thủ đô sẽ có đường phố tên là “Phố Ba cha con liệt sĩ”, bởi cả hai người con trai ở tuổi hoa niên đã ngã xuống cùng ông rất đáng được tôn vinh.
Còn tâm huyết và công lao của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện đối với cuộc chiến bảo vệ hài nhi đáng được ghi nhận bằng cách đặt tên Ông cho một bệnh viện phụ sản ở Hà Nội.
Tôi ước sao đến một ngày tại Thủ đô sẽ có đường phố tên là Phố Ba cha con liệt sĩ, bởi cả hai người con trai ở tuổi hoa niên đã ngã xuống cùng ông rất đáng được tôn vinh. - Cụ Vũ Đình Hoè - nguyên bộ trưởng Bộ giáo dục - Bộ Tư pháp nước Việt Nam DCCH |
Bác sĩ Nguyễn Văn Luyện sinh năm 1898 tại Bắc Ninh. Tốt nghiệp xuất sắc Y khoa Đại học Đông Dương, ông sang Pháp làm luận văn y học xã hội về nạn tử vong của trẻ sơ sinh Việt Nam. Năm 1928, trở về Việt Nam, hành nghề y và hoạt động xã hội vì người nghèo, cộng đồng; tham gia các hoạt động xã hội tiến bộ, ra báo Tin Mới, đưa tin có thiện cảm với cuộc chiến tranh chống phát xít Đức của nhân dân Liên Xô. Tiền khởi nghĩa 1945, ông gia nhập đảng Dân chủ trong Mặt trận Việt Minh, sau Cách mạng được Hồ Chủ tịch mời cùng các nhân sĩ Bùi Bằng Đoàn, Bùi Kỷ … vào Ban cố vấn cho Chủ tịch Chính phủ. Ông trúng cử đại biểu Quốc hội ở Hà Nội, được cử vào Ban Thường trực Quốc hội. Ông và hai con trai cầm vũ khí trực tiếp chiến đấu với quân Pháp và hy sinh ngay đêm 19-12-1946. Năm 1953, ông được truy tặng danh hiệu Liệt sĩ và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. |